九月二十日微雪懷子由弟其二

江上同舟詩滿篋,
鄭西分馬涕垂膺。
未成報國慚書劍,
豈不懷歸畏友朋。
官舍度秋驚歲晚,
寺樓見雪與誰登。
遙知讀易東窗下,
車馬敲門定不應。

 

Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 2

Giang thượng đồng chu thi mãn khiếp,
Trịnh tây phân mã thế thuỳ ưng.
Vị thành báo quốc tàm thư kiếm,
Khởi bất hoài quy uý hữu bằng.
Quan xá độ thu kinh tuế vãn,
Tự lâu kiến tuyết dữ thuỳ đăng.
Dao tri độc Dịch đông song hạ,
Xa mã xao môn định bất ưng.

 

Dịch nghĩa

Năm xưa, hai anh em cùng dong thuyền, xách theo những túi thơ đầy,
Năm ngoái, chia tay nhau rẽ ngựa ngoài cửa tây Trịnh Châu, nước mắt ướt đẫm ngực.
Chưa làm nên sự nghiệp với đời nên thẹn cùng sách và kiếm,
Há không mong trở về; nhưng về lúc này hẳn là ngại với bạn bè.
Nhà quan qua mùa thu, kinh sợ cho năm đã quá xế,
Trên nóc chùa đã đầy tuyết, nhưng không biết rủ ai cùng lên đó.
Tưởng chừng em hẳn ngồi đọc Kinh Dịch bên cửa sổ mái tây,
Lúc đó, dù xe ngựa có đến gõ cửa, hẳn là không đáp lại.


Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Cùng thuyền năm cũ túi thơ mang,
Năm ngoái chia tay nước mắt tràn.
Báo quốc chưa thành e sách kiếm,
Nhà quan thu muộn sợ năm tàn.
Hồi quy nhưng ngại cùng thân hữu,
Đầy tuyết nóc chùa ai biết bang.
Em đọc Dịch Kinh bên cửa sổ,
Ngựa xe đập cửa hẳn không màng.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Chung thuyền sông nước túi thơ đầy
Rẽ ngựa lệ trào qua Trịnh Tây
Báo quốc chưa thành thư kiếm thẹn
Về quê lại ngại bạn bè hay
Nhà quan thu đến lo năm hết
Chùa gác ai cùng ngắm tuyết bay
Dưới mái hiên đông nghiên cứu Dịch
Ngựa xe tận cửa cũng không hoài

Chưa có đánh giá nào
Trả lời