九月二十日微雪懷子由弟其一

岐陽九月天微雪,
已作蕭條歲暮心。
短日送寒砧杵急,
冷官無事屋廬深。
愁腸別後能消酒,
白髮秋來已上簪。
近買貂裘堪出塞,
忽思乘傳問西琛。

 

Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 1

Kỳ Dương cửu nguyệt thiên vi tuyết,
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm.
Đoản nhật tống hàn châm chử cấp,
Lãnh quan vô sự ốc lư thâm.
Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu,
Bạch phát thu lai dĩ thướng trâm.
Cận mãi điêu cừu kham xuất tái,
Hốt tư thừa truyện vấn tây sâm.

 

Dịch nghĩa

Tháng chín, tại huyện Kỳ Dương, trời đổ tuyết nhẹ,
Cũng đủ làm cho tâm tình trong cảnh năm già trở nên vẻ xơ xác.
Ngày vắng, tiếng chày xua đuổi cái lạnh nghe như vội vã,
Viên quan nhỏ, không việc gì, ngồi trong nhà tranh hun hút.
Gan ruột sầu héo có thể làm tiêu tan được rượu,
Tóc trắng, mùa thu tới, đã thấy như cài trâm.
Vừa mới bán chiếc áo lạnh lông điêu, nên không dám đi chơi xa,
Bỗng nghĩ đến việc ruổi xe đi tìm cái lạnh.


Hai bài thơ này làm năm 1060, lúc Tô Thức 27 tuổi, làm một chức quan nhỏ tại phủ Phụng Tường. Chức quan nhỏ, mà ông tài cao chí lớn, nên người đời nhận xét rằng trong hai bài thơ này, tình tự ông ẩn hiện những uẩn khúc, cũng khá kỳ lạ. Bài hai mới thật sự tỏ rõ cái cao ngạo và thị tài của tuổi trẻ.

Bản dịch nghĩa trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng (Tuệ Sỹ, NXB Ca Dao, 1973).

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Kỳ Dương tháng chín tuyết đầy rơi,
Năm muộn tâm tình lại rối bời.
Ngày ngắn chày xua đi lạnh giá,
Nhà tranh rỗi việc thảnh thơi ngồi
Ruột gan sầu héo tiêu tan rượu,
Tóc trắng thu về trâm thấy ngời.
Nghĩ đến ruổi xe tìm cái lạnh.
Áo lông điêu bán chẳng đi chơi.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tạ Trung Hậu

Kỳ Dương tháng chín tuyết lâm râm
Đủ xác xơ lòng mỗi cuối năm
Ngày ngắn chày khua xua gấp lạnh
Chức hèn việc rỗi sống âm thầm
Lòng sầu ly biệt mau tan rượu
Tóc bạc ngày thu dễ gắn trâm
Vừa bán áo cừu khôn bỏ ải
Chợt lo lệnh gọi ruổi tây lâm

Chưa có đánh giá nào
Trả lời