Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Sầm Tham
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/02/2015 10:10
皤皤岷山老,
把琴鬢蒼然。
衫袖拂玉徽,
為彈三峽泉。
此曲彈未半,
高堂如空山。
石林何颼飀,
忽在窗戶間。
繞指弄嗚咽,
青絲激潺湲。
演漾怨楚雲,
虛徐韻秋煙。
疑兼陽台雨,
似雜巫山猿。
幽引鬼神聽,
淨令耳目便。
楚客腸欲斷,
湘妃淚斑斑。
誰栽青桐枝,
緪以朱絲弦?
能含古人曲,
遞與今人傳。
知音難再逢,
惜君方老年。
曲終月以落,
惆悵東齋眠。
Bà bà Dân sơn lão,
Bả cầm mấn thương nhiên.
Sam tụ phất ngọc huy,
Vi đàn Tam Giáp tuyền.
Thử khúc đàn vị bán,
Cao Đường như không san.
Thạch lâm hà sưu lưu,
Hốt tại song hộ gian.
Nhiễu chỉ lộng ô yết,
Thanh ti kích sàn viên,
Diễn dạng oán Sở vân,
Hư từ vận thu yên.
Nghi kiêm Dương Đài vũ,
Tự tạp Vu sơn viên.
U dẫn quỷ thần thính,
Tịnh lệnh nhĩ mục tiện.
Sở khách trường dục đoạn,
Tương phi lệ ban ban.
Thuỳ tài thanh đồng chi,
Căng dĩ chu ti huyền?
Năng hàm cổ nhân khúc,
Đệ dữ kim nhân truyền.
Tri âm nan tái phùng,
Tích quân phương lão niên.
Khúc chung nguyệt dĩ lạc,
Trù trướng đông trai miên.
Ông lão núi Dân tóc đã bạc,
Tay cầm đàn, tóc mai đã hoa râm.
Tay áo đơn phất trên huy hiệu ngọc,
Khi đàn bài “Suối chảy vùng Tam Giáp”.
Bài này mới đàn chưa tới nửa khúc,
Người nghe đã cảm được cảnh Cao Đường trên núi vắng.
Núi đá trùng điệp với tiếng gió hú,
Chợt như hiện ra trước song cửa.
Ngón tay mềm mại tạo ra tiếng kêu uất nghẹn,
Dây đàn nhỏ màu xanh phát ra tiếng nước chảy rì rào.
Diễn tả được nỗi oán của mây đất Sở,
Làn khói thu khoan thai hư ảo.
Còn ngờ là diễn tả trận mưa trên Dương đài,
Tựa như tiếng hú của vượn trên núi Vu.
U huyền như tấu cho quỷ thần nghe,
Rõ ràng cho tai và mắt.
Du khách đất Sở buồn đứt ruột,
Vợ vua Thuấn khóc, vết lệ rơi còn trên đám trúc bờ sông Tương.
Ai trồng cây ngô đồng xanh để lấy vỏ cành,
Làm ra dây lớn màu đỏ?
Dây này diễn tả tốt các nhạc khúc xưa,
Lưu truyền cho người đời nay.
Người am tường âm nhạc khó gặp lại,
Tiếc thay ông lại tuổi vừa cao.
Khúc đàn tấu hết thì trăng đã lặn,
Buồn bã về phòng phía đông ngủ.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 04/02/2015 10:10
Đây lão già cư ngụ núi Dân,
Ôm đàn cùng mái tóc hoa râm.
Phất tay áo chạm phù huy ngọc,
Khi gảy bài Tam Giáp suối thân.
Đàn mới vang lên nửa khúc vào,
Thấy Cao Đường núi vắng tiêu dao.
Chập chùng gió hú ngàn non đá,
Lại tưởng như ngoài song cửa cao.
Ngón lướt mềm, âm tơ uất nghẹn,
Dây xanh tựa nước chảy rì rào.
Nghe như nỗi oán mây trời Sở,
Làn khói thu huyền ảo xuyến xao.
Còn ngỡ Dương Đài mưa gió bay,
Hay rằng vượn hú núi Vu đây.
U huyền như tấu dâng thần quỷ,
Mắt thấy tai nghe thật hẳn tài.
Du khách Sở buồn như đứt ruột,
Lệ Tương phi để dấu nào phai.
Ai trồng ngô biếc, cho cành vỏ,
Để được những dây to đỏ này?
Dây diễn tấu bao nhiêu khúc cổ,
Lưu truyền cho mãi đến đời nay.
Người tường nhạc gặp lại nhau khó,
Những tiếc ông cao tuổi lắm thay.
Đàn tấu xong vầng trăng đã lặn,
Buồn về phòng đánh giấc mà thôi.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 23/04/2016 20:40
Lão to bụng núi Dân cư trú
Tay cầm đàn, tóc đã hoa râm
Áo đơn huy ngọc tay đàn
Bài ca “Suối chảy vùng Tàm Giáp” xưa
Bài này mới đàn chưa nửa khúc
Người nghe đà cảm xúc Cao Đường
Núi đồi trùng điệp gió ngàn
Chợt như hiển hiện chờn vờn trước song
Ngón tay tạo âm thanh uất nghẹn
Dây màu xanh phát tiếng nước tuôn
Thay lời mây Sở oán hờn
Tựa như làn khói thu vờn khoan thai
Còn ngờ là Dương Đài mưa lớn
Như tiếng kêu của vượn núi Vu
U huyền như nhạc quỷ ma
Rõ ràng như mắt thấy và tai nghe
Khách đất Sở ta buồn đứt ruột
Lệ Tương Phi trên trúc dấu xưa
Cành ngô đồng lấy ai cưa
Làm ra dây đỏ dễ ưa lại vừa
Diễn tả tốt nhạc xưa khúc cũ
Lưu truyền cho người thế hệ nay
Người sành nhạc khó gặp thay
Mà ông tuổi tác lúc này vừa cao
Khúc đàn hết trăng sao lặn cả
Ngủ phòng đông buồn bã lui về.