Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Hán
Đăng bởi tôn tiền tử vào 13/09/2014 02:41, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 24/04/2020 14:54
再出何心博一官,
矧勞二豎十年間。
少陵離亂頻吟苦,
彭澤歸來久愛閒。
老眼幾回驚見海,
餘生此日好還山。
濟時憑仗群公力,
無事柴門永自關。
Tái xuất hà tâm bác nhất quan,
Thẩn lao nhị thụ thập niên gian.
Thiếu Lăng ly loạn tần ngâm khổ,
Bành Trạch quy lai cửu ái nhàn.
Lão nhãn kỷ hồi kinh kiến hải,
Dư sinh thử nhật hảo hoàn san.
Tế thời bằng trượng quần công lực,
Vô sự sài môn vĩnh tự quan.
Lại ra lần này, lòng nào còn mong kiếm một chức quan,
Huống chi trong mười năm đã hai đợt lặn lội quan trường.
Thiếu Lăng đã làm nhiều thơ tả nỗi khổ loạn ly,
Bành Trạch từ lâu thích cảnh nhàn mới trở về vườn ruộng.
Con mắt già bao lần kinh hãi nhìn cuộc bể dâu,
Kiếp sống thừa bây giờ chỉ muốn về chốn núi rừng.
Cứu vãn thời thế chỉ còn trông mong chư ông góp sức,
Được vô sự, tôi sẽ mãi đóng chặt cửa sài.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 14/09/2014 02:41
Lại ra lần nữa làm quan
Thân này hai bận mười năm đủ rồi
Ngâm thơ Đỗ Phủ thương đời
Noi gương Bành Trạch yên vui cảnh vườn
Mắt già dâu biển ngại ngần
Sống thừa tìm chốn gửi thân yên lòng
Giúp đời nhờ sức chư ông
Cửa sài đóng chặt nhưng mong bấy rầy
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 31/08/2018 11:58
Lại ra lần nữa phải làm quan,
Mười năm hai bận thân này đủ.
Ngâm thơ Đỗ Phủ thương đời trọc,
Noi gương Bành Trạch yên cảnh nhàn.
Mắt già dâu biển bao ngần ngại,
Tìm chốn gửi thân sống bằng an.
Giúp đời chư ông xin nhờ sức,
Đóng chặt cửa sài mong bạn vàng.