輓司徒公

騎箕人去白雲深,
善類相逢嘆陸沉。
已矣九重亡魏鑑,
依然四海渴商霖。
公言猶喪奸臣膽,
厚遇難忘國士心。
流水高山杳若夢,
為誰再拂壁間琴。

 

Vãn tư đồ công

Kỵ nhân khứ bạch vân thâm,
Thiện loại tương phùng thán lục trầm.
Dĩ hĩ cửu trùng vong Nguỵ giám,
Y nhiên tứ hải khát Thương lâm.
Công ngôn do táng gian thần đảm,
Hậu ngộ nan vong quốc sĩ tâm.
Lưu thuỷ cao sơn diểu nhược mộng,
Vị thuỳ tái phất bích gian cầm.

 

Dịch nghĩa

Người cưỡi sao Cơ đi mất, mây trắng mịt mù,
Những bậc thiện gặp nhau, than thở cảnh ngập chìm trên cạn.
Ôi thôi! Chín tầng đã mất tấm gương họ Nguỵ,
Bốn biển vẫn khao khát trận mưa dầm của nhà Thương.
Lời nói của người còn làm cho bọn gian thần khiếp đảm,
Tình tri ngộ đậm đà, lòng kẻ quốc sĩ khó quên.
Nước chảy, non cao, mịt mờ như giấc mộng,
Vì ai lại phủi cây đàn trên vách một lần nữa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Cơ Tú cưỡi đi mây trắng lan
Nước chìm bậc thiện gặp nhau than
Cửu trùng gương Nguỵ ôi quên mất
Bốn bể tựa Thương mưa khát tràn
Lời nói gian thần còn khiếp đảm
Khó quên quốc sĩ nhận ân ban
Non cao nước chảy như mơ ảo
Trên vách vì ai lại phẩy đàn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Người cưỡi sao Cơ mây biệt ngàn,
Cạn chìm bậc thiện gặp nhau than.
Chín tầng họ Nguỵ gương đã mất,
Bốn biển mưa Thương khao khát tràn.
Người nói gian thần còn khiếp đảm,
Khó quên quốc sĩ ngộ tri ân.
Non cao nước chảy mộng mờ ảo,
Trên vách vì ai lại phủi đàn.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời