Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Đình Thi
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Những làng xóm mọc lên luỹ thépVà câu “Lòng ta bát ngát ánh bình minh” in là: “Đây những người con Hồ Chí Minh”.
Những ruộng vườn thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng trên đất chết
Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi
Sáng mắt trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy
Ôi nắng dội chan hoà
nao nao trời biếc
Nắng nhuộm hương đồng ruộng hương rừng chiến khu
Tháp Rùa lim dim nhìn nắng
mấy cánh chim non trông vời nghìn nẻo
Mây trắng nổi tơi bời
Mấy đứa giết người hung hăng một buổi
Tháng Tám về rồi đây
hôm nay nghìn năm gió thổi
Đàn con hè phố môi hồng hớn hở
ngày hẹn đến rồi
Hôm nay nghìn năm trời muôn xưa
Các anh ngậm cười bãi núi ven sông.
Hà Nội ơi núi rừng.
Trang trong tổng số 1 trang (10 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi dongsh ngày 21/03/2008 08:35
Sau những vần thơ cảm nhận đất nước từ mùa thu truyền thống lịch sử ở phần 2 tác giả đã tạc hình đất nước từ trong đau thương đứng lên chiến đấu với tất cả sức mạnh và niềm tin yêu ngời sáng.
Đất nước được thể hiện trong đau thương qua những vần thơ bi tráng.
Đất nước đau thương bởi chiến tranh bởi tội ác của bọn thực dân phong kiến. Cảm hứng về đất nước của nhà thơ được thể hiện qua nhiều hình ảnh độc đáo có tính sáng tạo vừa cụ thể vừa mang tính khái quát:
Ôi những cánh đồng quê chảy máuCâu thơ có cảm hứng trực tiếp trên chặng đường hành quân. Khi hành quân qua những vùng thuộc tỉnh Bắc Giang tác giả chứng kiến cảnh đồng quê hoang tàn những vùng bị chiến tranh tàn phá không còn màu xanh sự sống. Những cánh đồng quê dưới ánh mặt trời chiều đỏ ối gợi lên bao nỗi đau nhức buốt.
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấuCâu thơ như giải thích động lực tinh thần của người chiến sĩ. Họ lên đường chiến đấu với cả khối căm hờn với cả tình yêu thương. Căm hờn và yêu thương đều nấu nung đều cháy bỏng. Tâm trạng này tình cảm này về sau cùng được nói đến trong thơ của Xuân Diệu trên chặng đường hành quân, cùng là tâm hồn của người chiến sĩ:
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Yêu với căm hai đợt sóng ào àoỞ người lính tình yêu riêng và lý tưởng chung đã hoà làm một. Trên nền đất nước đau thương bởi chiến tranh bỗng vụt sáng long lanh trong tâm tưởng người lính hình ảnh đôi mắt người yêu. Đôi mắt người thương như ngôi sao xanh soi tỏ bầu trời đêm soi sáng bước đường hành quân của người chiến sĩ. Đó cũng là ngôi sao của niềm tin niềm hy vọng. Hình ảnh đôi mắt người yêu như ngôi sao xanh của tình yêu thương của niềm tin hy vọng đã trở thành một khái niệm đẹp thành một ấn tượng không thể phai mờ nên thường trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Đình Thi:
Vỗ bên lòng dội mãi đến trăm sao.
Ngôi sao nhờ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cày.
(Nhớ)
Tia lửa nơi ta bay lên caoSự quyện hoà giữa tình riêng và lý tưởng chung giữa yêu thương và cám giận đã tạo nên sức mạnh phi thường để người chiến sĩ có thể vượt qua những ngày nắng cháy những đêm mưa dội để tin tưởng vào ngày mai chiến thắng:
Trong mắt người yêu thành ngôi sao
(Em bảo anh)
Trán cháy rực nghĩ trời đất mớiKhông chỉ người lính mà cả đất nước đã đau thương đứng lên chiến đấu với tất cả sức mạnh và niềm tin yêu.
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậuĐất nước đứng lên chiến đấu trong sự gắn bó với nhân dân:
Đã bật lên những tiếng căm hờn.
Ôm đất nước những người áo vảiĐộng từ ôm nói lên sự gắn bó thân thiết sâu sắc của mỗi người dân đối với đất nước mình. Câu thơ không chỉ nói lên một tư tưởng mới về mối quan hệ giữa đất nước và nhân dân mà còn nói lên một quan niệm mới về con người anh hùng. Con người anh hùng có ở những con người bình thường giản dị. Những người áo vải, những người lao động khi cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc họ đã trở thành những anh hùng chân chính của thời đại.
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Súng nổ rung trời giận dữCâu thơ có cảm hứng trực tiếp từ không khí sôi động của chiến trường Điện Biên trong khí thế tổng phản công mà tác giả từng được chứng kiến. Trong mưa bom bão đạn bộ đội ta đào hào tiến công đồn thù. Người trước ngã người sau tiếp bước cứ ào ạt dâng lên như nước vỡ bờ hết lớp này đến lớp khác. Những chiến sĩ sống trong lòng tự hào trong bùn đất khi chiến hào tới sát đồn giặc. Họ rũ bùn nhảy lên mặt đất xung phong trong ánh sáng chói loà của lửa đạn công đồn.
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà,
Súng nổ/ rung trời/ giận dữ Người lên/ như nước vỡ bờ.Đó là nhịp của triều dâng lũ cuốn tạo nên những lớp sóng thần tiếp nối nhau hết lớp này đến lớp khác. Đó là nhịp của gió lay, của bão giật hết trận này đến trận khác.
Gửi bởi littlepumpkin ngày 08/01/2010 08:32
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi littlepumpkin ngày 08/01/2010 08:37
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác trong khoảng thời gian dài (1948-1955) là cảm hứng thi ca mang tính tổng hợp về chủ đề đất nước. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ là niềm tự hào kiêu hãnh về Tổ quốc Việt Nam từ trong đau thương nô lệ dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng lên đấu tranh giành thắng lợi huy hoàng với niềm tin yêu sáng ngời được kết thúc bằng bốn câu thơ đầy hào hứng:
Súng nổ rung trời giận dữNgay câu thơ đầu tiên của khổ thơ tác giả đã cho người đọc thấy một loạt hình ảnh tiếng súng. Đó không phải là những tiếng súng nổ lẹt đẹt mà là tiếng súng nổ giận dữ, đó là tiếng súng nổ rung trời đồng thời đó cũng là sự giận giữ của lòng người. Những dàn súng lớn của quân ta vào đồn bốt của giặc không chỉ bắn ra bằng những viên đạn đồng mà còn được bắn bởi những viên đạn nhồi bằng thuốc nổ căm hờn của lòng người dân Việt Nam được nén chặt từ hàng năm nay dưới ách xâm lược của thực dân Pháp “Thằng giặc Tây thằng chúa đất đứa đè cổ, đứa lột da” chính vì thế mà chúng mới có sức rền vang mạnh mẽ đến mức làm rung chuyển cả trời đất. Hình ảnh đó làm ta liên tưởng đến những câu thơ của Nguyễn Trãi khí thế tiến công mạnh như vũ bão của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh:
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giậtNếu câu thơ trên nhà thơ miêu tả sức mạnh của dân tộc qua hình ảnh tiếng súng thì đến câu thơ này là hình ảnh con người hiện lên “như nước vỡ bờ”. Câu thơ vừa mang đậm ý nghĩa hiện thực mà lại giàu ý nghĩa tượng trưng, diễn tả hình ảnh từng binh đoàn xông lên chiếm lấy cao điểm cuối cùng trong một trận đánh nào đó vừa diễn tả sức mạnh quật khởi của cả dân tộc bị áp bức nô lệ. Hình ảnh này được thể hiện thật rõ rệt qua bút pháp so sánh tài tình của tác giả với cách vận dụng thành ngữ giản dị dễ hiểu mà giàu ý nghĩa tượng trưng “Người lên như nước vỡ bờ”.
Miền Trà Lan trúc chẻ tro bay
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Súng nổ rung trời / giận dữNhư những bước chân đang dồn dập xông lên với khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ quyết liệt của quân và dân ta.
Người lên / như nước/ vỡ bờ
Chín năm làm một Điện BiênVà chỉ trong những giây phút lịch sử ngắn ngủi, dân tộc đất nước ta đã hoá thân lột xác từ địa vị nô lệ không tên tuổi bỗng chốc trở thành:
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng
(Tố Hữu)
Việt Nam dân tộc anh hùngSau này cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy hi sinh gian khổ hoàn toàn chiến thắng nhà thơ Tố Hữu cũng có những câu thơ đầy tự hào như Nguyễn Đình Thi:
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Ôi Việt Nam từ trong biển máuChỉ có bốn câu thơ với hai mươi tư chữ đã kết tinh được chủ đề tư tưởng của bài thơ Đất nước. Đoạn thơ có những câu thơ ngắn ngắt nhịp đều đặn tạo được một âm hưởng dõng dạc hùng tráng. Nó xứng đáng là một bức điêu khắc bằng thơ đựng lên được một tượng đài hào hùng của dân tộc, trong những giây phút huy hoàng chói sáng nhất của lịch sử.
Người vươn lên như một thiên thần
(Việt Nam máu và hoa)
Gửi bởi dongsh ngày 30/11/2011 23:38
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Ôi những cánh đồng quê chảy máuBài làm
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Ôi những cánh đồng quê chảy máuHai câu thơ có sức khêu gợi lớn. Nó diễn tả một cách cô đọng và tập trung cảnh làng xóm quề hương chảy máu: “Những cánh đồng quê chảy máu” – Chỉ có sáu tiếng gợi lên trong tâm tư chúng ta nhiều mối liên tường khác nhau: Cảnh những trận càn trên đồng lúa, cảnh giặc đuổi người, bắn người trên cánh đồng, cảnh những vụ gặt giành tay giặc từng hạt thóc, từng bông lúa và mỗi hạt thóc bông lúa đều thấm máu nhân dân. Đó còn là cảnh những người du kích đổ máu để bảo vệ đồng quê, ruộng lúa xóm làng. Nhà thơ dùng biện pháp nhân hoá đơn sơ mà diễn tả được tình cảnh đau thương, tinh thần anh dũng của đồng bào và quê hương trong chiến đấu.
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Chiều mộng hoà thơ trông nhánh duyên...
(Thơ duyên - Xuân Diệu)
Việt Nam, đất nước ta ơiMà nó lại gợi lên màu máu đỏ. Chúng ta hình dung một mảnh trời chiều đỏ rực khi mặt trời vừa lặn in những hình dây thép gai lởm chởm nhọn hoắt tưởng chừng như đâm nát cả trời chiều, làm cho nền trời càng ứa máu. Câu thơ của Nguyễn Đình Thi gây ấn tượng mạnh bằng thủ pháp ngược sáng điện ảnh, làm cho những đường nét, màu sắc tương phản gay gắt. Từ một hình ảnh thực thu vào tầm mắt trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, hình ảnh thơ đã được nâng lên thành hình ảnh biểu tượng sâu sắc cho đất nước đau thương trong chiến tranh bị quân thù chiếm đóng.
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànTrong bài Chạy Tây, Nguyễn Đình Chiều cũng đã viết:
Tàn hại cả côn trùng thảo mộc
Độc ác thay trúc Nam Sơn...
Không rửa hết mùi
Bỏ nhà lũ trẻ lơ thơ chạyTrong bài Bà má Hậu Giang, Tố Hữu đã dựng lên được cả một bức tranh sinh, động về cảnh “Đốt sạch, giết sạch” mà thực dân Pháp đã dành cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ:
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỡi ôi việc chửa thành côngSau này, Chế Lan Viên đã có một câu thơ đầy trí tuệ về tội ác kẻ thù:
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im không một tiếng gà gáy trưa.
Chúng nhân số dân ta lên cùng với số đạnHai câu thơ của Nguyễn Đình Thi như tả ngoại cảnh mà thực ra là tả tình. Cho nên mới có tiếng “Ôi!” ở đằng trước. Biết bao tình cảm xót xa đau đớn nhức nhối căm thù trong lòng người chiến sĩ được chứa đựng trong những hình ảnh thơ ấy. Vì thế:
Khô cằn xuân và tuyệt tự cả trăm vùng
Những đèm dài hành quân nung nấuNếu hai câu đầu thiên về ngoại cảnh thì đến hai câu thơ này đã đi sâu hơn vào tâm trạng. Trên cái nền của cảnh đất nước đau thương, của những gian lao anh dũng trong chiến tranh, bỗng vụt sáng long lanh trong tâm tưởng của người chiến sĩ hình ảnh đôi mắt người yêu dõi theo sau những ô cửa sổ như những ngôi sao xanh của hy vọng và khát vọng, soi tỏ bầu trời đêm:
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánhHình ảnh người lính, qua hai câu thơ là hình ảnh “những con người đẹp nhất” vì họ đã “biết căm thù và biết yêu thương”. Biết bao nỗi căm hờn ẩn chứa trong trái tim như được dồn nén lại qua từ “nung nấu” và cũng có biết bao tình cảm yêu thương nồng nàn, thiết tha cháy bỏng của người chiến sĩ đối với người thương được đúc lại trong hai chữ “bồn chồn” ấy. Hai từ đó đi sóng đôi với nhau, bổ sung cho nhau làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Họ vừa có ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho Tổ quốc vừa có trái tim lãng mạn mộng mơ. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn người lính ra trận. Từ “dài” đi với từ ‘nung nấu" trong câu thơ trên cùng với từ “bồn chồn” ở câu thơ sau cũng đã diễn tả rất thành công mối quan hệ giữa tình cảm thường trực và đột xuất, thể hiện thật hoàn thiện và sâu sắc sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu đất nước của người chiến sĩ.
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau tương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm, mỗi bữa anh ăn
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yếu nhau kiêu hãnh làm người
(Nhớ – Nguyễn Đình Thi)
Từ những năm đau thương chiến đấuBằng thủ pháp đối lập..., tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp Việt Nam, tinh thần bất khuất kiên cường Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp Tố Hữu đã từng viết:
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Ta như thuở xưa thần Phù ĐổngVà sau này trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, suy ngẫm về sức sống diệu kì của dân tộc, Tố Hữu cũng lại viết nên những câu thơ đầy tự hào:
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
Chúng muốn đốt ta thành tro bụiViệt Nam vốn là dân tộc giàu phẩm chất “hồn hậu, nhân ái, chan hoà” nhưng “lành với bụt không ai lành với ma”. Mỗi khi kẻ thù ngoại xâm đặt bàn chân bẩn thỉu cùng với những mưu đồ đen tối lên đất nước ta thì lập tức “tre thành chông – sông là lửa mà Điện Biên mới chỉ là bài học đầu tiên”:
Ta hoá vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm;
Việt Nam! Ơi Tổ quốc thương yêu
Trong khổ đau Người đẹp hơn nhiều
Việt Nam trong lửa đạn sáng ngời
Bát cơm chan đầy nước mắt“Bát cơm” hiện thân sự sống hàng ngày của ta, ta phải giành giật từ bàn tay khắc nghiệt của thiên nhiên, phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt “dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Thế mà khi ta đã bưng lên miệng, giặc còn giằng một cách thô bạo. “Thằng giặc Tây, thằng chúa đất – Đứa đè cổ, đứa lột da”. Sự cấu kết giữa phong kiến và đế quốc thực dân là đặc trưng của một nước thuộc địa. Đây là một liên minh ma quỷ để nhằm tiêu diệt những dân tộc vô tội. Hình ảnh “đứa đè cổ, đứa lột da” là một hình ảnh ẩn dụ đã làm nổi bật được tội ác của kẻ thù xâm lược và số phận bi thương tội nghiệp của dân ta. Qua lời thơ, số phận người dân Việt Nam có khác gì con chim con cá chúng vặt lông làm thịt lúc nào chẳng được:
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da
Chúng coi mình như trâu như chó
Chúng coi mình như cỏ như rơm
(Phan Bội Châu)
Một đời đau suốt trăm nămGiặc ỷ thế vào sức mạnh của vũ khí, của sự tàn bạo “xiềng xích, súng đạn” tối tân. Nhưng “Máu không thể dìm được chân lí” (Gooc-ki). Chúng dù hung ác bạo tàn đến đâu cũng không huỷ diệt được “những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ, những cánh đồng bốn mùa hoa lá” xanh tươi, thơ mộng, cũng không thể bắn được tấm lòng của những người dân vốn sống trên đất nước “Bao giờ hết cỏ; Việt Nam mới hết người đánh Tây” (Nguyễn Trung Trực):
Chim treo trên lửa cá nằm dưới dao
(Tố Hữu)
Xiềng xích chúng bay không khoẻ được(Hình ảnh xiềng xích đối lập vói trời; súng đạn: hữu hình đối lập với lòng dân ta: vô hình).
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núiBằng một hình ảnh “khói” và âm thanh “kèn”, tác giả cũng đã dựng được một cách sinh động bức tranh của đời sống kháng chiến. “Kèn” là âm thanh vang vọng nhất của cả dân tộc lúc bấy giờ. Đó là tiếng kèn của chiến trận thôi thúc, giục giã để chuẩn bị cho một cuộc ra trận của cả dân tộc "Những đường Việt Bắc của ta “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Động từ “nhòm” diễn tả động tác vòng hai tay bao lấy đối tượng và giữ sát vào người, nuôi mãi trong lòng (từ điển). Nhờ thế, câu thơ đã làm nổi bật được lòng yêu nước thiết tha sâu nặng của những người nông dân “Những người áo vải”, lực lượng chủ yếu, trụ cột của phong trào kháng chiến, giải phóng dân tộc:
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Mặt người vất vả in sâuTừ nay trở đi họ không còn là “con ong cái kiến, cái cò, cái vạc, cái nông” nữa mà là người anh hùng vĩ đại của thời đại mới sẽ viết nên những trang sử vàng chói lọi nhất:
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
Dân ta gan dạ anh hùngBằng sự từng trải của chính bản thân, Nguyễn Đình Thi đi đến những khái quát cao độ về những gian khổ, những mất mát hy sinh to lớn của đất nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội“Ngày nắng đốt dội”, khó khăn nối tiếp khó khăn, thử thách nối tiếp thử thách. “Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh”. Điệp từ “mỗi” tạo nên sự hô ứng làm nổi bật sự hy sinh lớn lao. Đúng là con đường đi đến đích độc lập tự do đâu phải là con đường đầy hoa thơm quả ngọt mà “Đường qua máu chảy – Máu đọng chưa khô. Máu lại đầy Trăm đắng nghìn cay”. Nhưng trên con đường đi tới, bước tiếp ấy, con người Việt Nam vẫn hiện lên trong một tư thế thật kiêu hãnh, một vẻ đẹp tuyệt vời.
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới“Trán” là biểu hiện của sự suy nghĩ, của trí tuệ; còn “lòng” ở câu thơ này là biểu hiện của tư tưởng, tình cảm, tâm hồn. Vầng trán của con người mới đã cháy bỏng và rực sáng ý nghĩ về đất trời, quê hương mới để tiến lên “Con đường sáng tuyệt vời” (Chế Lan Viên). Còn tấm lòng của họ cũng toả sáng bao la ánh bình minh của lịch sử và tương lai. Con người có khối óc và trái tim ấy sẽ trở thành những bông hoa của đất nước trong thời đại ta. Ở trong chiến đấu cũng như trong xây dựng họ đều xuất hiện với tư thế, tầm vóc thật kì vĩ, phảng phất màu sắc thần thoại:
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ những loài sen
(Mùa thu mới – Tố Hữu)
Gửi bởi Minh Trúc ngày 27/05/2014 23:53
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Mùa thu nay khác rồi!Bài làm
.....
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Mùa thu nay khác rồi!Sau khi hồi tưởng đến mùa thu của những ngày rời Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn với cảm xúc “Buồn buồn lặng lặng” (Hoài Thanh), tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình về mùa thu mới, mùa thu trên đất nước nhân dân đã làm chủ vận mệnh của mình, mùa thu kháng chiến ở núi rừng Việt Bắc: “Mùa thu nay khác rồi”. Lời thơ đầy tính chất khẳng định. Đó là sự khác rồi về không gian, thời gian và tâm trạng con người trước mùa thu. Nhưng cái khác trước hết của mùa thu này được người đọc nhận ra ngay ở nhịp điệu, tiết tấu, hình ảnh thơ: từ những câu thơ thất ngôn sâu lắng, cổ kính mang đậm màu sắc Đường thi, bài thơ bỗng chuyển sang những câu thơ tự do, tạo nên một nhịp điệu hối hả phơi phới làm cho đoạn thơ như hát vang lên từ một trái tim chất chứa niềm vui.
....
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Trời thu thay áo mớiNhờ sử dụng biện pháp nhân hoá đặc sắc, nhà thơ không chỉ diễn tả được sự thay đổi của sắc thu mà còn diễn tả được sự thay đổi của lòng người, hồn người. Qua câu thơ của Nguyễn Đình Thi, dường như mùa thu đất nước đã được hồi sinh và hiện lên như một cô gái đầy sức trẻ, trẻ cả hình sắc, trẻ cả tâm hồn. “Trong biếc nói cười thiết tha”. Câu thơ có 6 chữ mà dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc và ấn tượng: âm thanh thì “nói cười” tươi trẻ, màu sắc thì “trong biếc”, tình cảm thì “thiết tha”. Nhớ lại cảnh mùa thu cũ hiện về như thiếu nữ “đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” với “áo mơ phai dệt lá vàng” còn thu nay đã được thay bằng chiếc áo màu tươi sáng, bình dị, ta càng thấm thía thu từ đây “không thu thảm thu sầu” mà là “thu sướng nhuộm màu xuân mát mát”:
Trong biếc nói cười thiết tha
Mùa thu vàng sáng tới rồi đâyĐoạn thơ trên được tác giả sử dụng nhiều động từ “đứng, nghe, gió thổi, thay áo, nói, cười” đã gợi được không khí nhộn nhịp sôi nổi rộn ràng của mùa thu, Cảnh sắc thiên nhiên ở đây vừa bình dị khoẻ khoắn, vừa trong trẻo tươi sáng hoà hợp với tâm trạng vui hồ hởi của thi nhân tạo nên một vẻ đẹp mới cho mùa thu đất nước. Nguyễn Đình Thi đã đưa đến một nét mới cho những bài thơ về mùa thu Việt Nam muôn đời.
Áo mới em phơi gió thổi đầy
Áo trắng đôi tà phơ phất hoá
Áo vàng em mặc cánh thu bay
(Xuân Diệu)
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốcNhìn sang bên kia là những dãy núi, những cánh rừng trùng trùng điệp điệp “Núi rừng đây là của chúng ta”. Hai chữ “núi rừng” không hề gợi lên cảnh ma thiêng nước độc mà chỉ gợi lên sự giàu có của Tổ quốc, ẩn chứa biết bao tài nguyên phong phú “Rừng vàng bể bạc đất phì nhiêu”. Nhớ lại cảnh quê hương làng xóm trong máu lửa chiến tranh, bầu trời cánh đồng như ứa máu, rách nát bởi dây thép gai, móng vuốt của kẻ thù “Ôi những cánh đồng quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều!” chúng ta mới thấm thía cái vang hưởng của lòng tự hào, niềm kiêu hãnh và ý thức độc lập tự chủ toát ra từ hai câu thơ:
Khi tự do về chói ở trên đầu
Trời thu xanh ngắt sáng tuyên ngôn
Trời bỗng xanh hơn nắng chói loà
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(Tố Hữu)
Trời xanh đây là của chúng taNhững câu thơ khẳng định, những đại từ chỉ định “đây” cùng với điệp từ ngữ “của chúng ta” đã vang lên dõng dạc niềm tự hào kiêu hãnh về quyền làm chủ đất nước. Cảm hứng này là một cảm hứng mà ta thường gặp trong thơ ca Việt Nam sau ngày giải phóng:
Núi rừng đầy là của chúng ta
Của ta trời đất, đêm ngàyNhững câu thơ “Tôi nhớ lại; Tôi đứng vui nghe” là những lời độc thoại của nhân vật trữ tình. Sau lời độc thoại, đến đây dường như nhà thơ hát chung với dàn đồng ca của nhân dân, hoà trong cảm hứng vui sướng, tự hào được làm chủ đất trời thiên nhiên Tổ quốc tươi đẹp:
Núi kia đồng nọ, sông này của ta
(Tố Hữu)
Những cánh đồng thơm mátBằng hàng loạt từ “những” một từ chỉ số nhiều không xác định mở đầu các đòng thơ, trước hết tác giả như muốn kể thêm nhiều hơn vẻ giàu đẹp của đất nước, sau nữa đoạn thơ gợi cho người đọc bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra lộng lẫy, bát ngát. Nguyễn Đình Thi sử dụng nhiều tính từ chỉ cảm xúc “thơm mát, bát ngát, đỏ nặng”. Điều đó vừa diễn tả được tình cảm yêu nước thiết tha, nồng nàn của tác giả vừa làm cho bức tranh đất nước như có thêm đường nét, màu sắc, hình khối. Với tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng, dường như tác giả cảm nhận được cả cái vị “thơm mát” của cánh đồng, tận mắt thấy được cái “bát ngát” tự do của những ngả đường mở ra, như trông thấy được cả những dòng sông đỏ nặng phù sa cuộn chảy về xuôi. Câu thơ của Nguyễn Đình Thi thật trĩu nặng suy tư. “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” hay đỏ nặng tấm lòng yêu thương và tự hào đối với đất nước của tác giả? Ở đây nhà thơ sử dụng nhiều nguyên âm mở “a, at” cuối dòng thơ cùng đã góp phần diễn tả thành công cái cảm xúc thơ nói trên (Từ cuộc sống có phần tù túng trong năm cửa ô, các văn nghệ sĩ mang ba lô hành hương lên đất thánh Việt Bắc. Qua bao nhiêu nẻo đường kháng chiến, cảm nhận về đất nước được mở ra theo chiều rộng không gian với bầu trời thu trong xanh, những núi rừng bát ngát của Việt Bắc, những cánh đồng lúa thơm mùi sữa, những dòng sông Lô, sông Thao, sòng Hồng cuồn cuộn phù sa).
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta“Nước chúng ta”, câu thơ có ba chữ mà như nổi bật lên giũa bài thơ giống như dòng nước đang cuộn chảy bỗng chững lại, dồn nén lại. Câu thơ bình dị mà chất chứa bao nhiêu cảm xúc yêu thương và tự hào.
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Tim Việt Nam có Bạch Đằng ca hátĐúng là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, vừa mang yếu tố cảm xúc cụ thể vừa có ý nghĩa tượng trưng khái quát sâu xa “Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Nhờ sự kết hợp khéo léo giữa các từ “những... xưa... vọng... về”, câu thơ của Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn tả được tính chất liên tục truyền thống bất khuất kiên cường của dân tộc. Cả quá khứ sâu thẳm của lịch sử đất nước dường như cũng đều có mặt với con cháu hôm nay, luôn luôn nhắn gửi về những lời thiêng liêng tha thiết. Đúng như Lê Anh Xuân đã từng viết:
Có đường gươm “sát thát” chém Toa Đô
Có Nguyễn Trãi trong hồn thơ ý nhạc
Sang sảng ngân trong “Đại cáo bình Ngô”
Nghe như tiếng của cha ông thuở trướcBằng những câu thơ giàu tính chất suy tư và cảm xúc, bằng những hình ảnh nhân hoá vừa cụ thể vừa tượng trưng, đoạn thơ trên không chỉ thể hiện được niềm vui, niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp và ý thức độc lập tự chủ mà còn bày tỏ được niềm biết ơn thành kính với tổ tiên. Vì hơn ai hết, nhà thơ đã ý thức được những chiến công vẻ vang hôm nay là kết quả của sức mạnh tổng hợp giữa quá khứ oanh liệt của cha ông với cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân ta:
Truyền con cháu hãy ngẩng cao đầu mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa
Hãy viết tiếp bài ca bất khuất ngày xưa
Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không gì quý hơn độc lập tự do.
Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ
(Tố Hữu)
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:42
Ôi những cánh đồng quê chảy máuĐó là hai câu thơ với hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ và ám ảnh trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, được viết và sửa trong thời gian từ năm 1948 đến năm 1955.
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:44
Đề bài: Bình giảng đoạn thơ:
Mùa thu nay khác rồiBài làm
...
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Mùa thu nay khác rồiVới nhan đề Đất nước, bài thơ đã được khơi nguồn những rung chuyển tinh tế của nhà thơ và bức tranh mùa thu dân tộc để triển khai trực tiếp thi đề. Vì thế bài thơ mơ đầu bằng những dòng thơ chứa đựng những chi tiết thâu tóm được đặc trưng mùa thu Việt Nam – mùa thu xứ sở:
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh dây là của chúng ta
Núi rừng day là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Sáng mát trong như sáng năm xưaVới giọng thơ hoài niệm sâu lắng gợi nhớ về bức tranh mùa thu Hà Nội nên thơ, thi vị trong lòng một người từng gắn bó sâu nặng với thủ đô. Cũng chính chi tiết ấy đã bắc nhịp cầu nối liền hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại, hai miền không gian xa cách Việt Bắc và Hà Nội. Từ đó, làm cho bức tranh mùa thu nơi chiến khu Việt Bắc hiện ra một câu năm chữ bình dị tự nhiên như một câu nói hàng ngày lại gợi một sự thay đổi lớn lao đột ngột và có sức lay động sâu xa đối với mỗi tâm hồn Việt Nam. Bởi sức mạnh truyền cảm của thơ không phải chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà là vấn đề nhà thơ phản ánh được thể hiện qua sự rung động mãnh liệt của tâm hồn nghệ sĩ. Dường như tiếng reo vui của tâm hồn thi sĩ và của mỗi người lại được thể hiện qua mấy chữ “khác rồi” ấy. Không còn hoài niệm lắng sâu phảng phất, một chút buồn vắng khi tái hiện bức tranh mùa thu trong thời điểm xưa. Chủ thể trữ tình – nhà thơ dường như không kìm nén được niềm vui lớn của mình giữa đất trời tự do nên đã bộc lộ trực tiếp:
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồiVà Nguyễn Đình Thi không chỉ vui nghe mà còn say xưa – cảm nhận cái không khí của mùa thu độc lập bằng nhiều giác quan đặc biệt nhạy cảm của tâm hồn thi nhân. Trong niềm vui say sưa ấy của thi nhân, mùa thu, Việt Bắc hiện lên tươi mới, đầy sức sống. Không còn hình ảnh một mùa thu nô lệ mất nước với “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” như trong thư Nguyễn Khuyến. Cũng chẳng còn một mùa thu với “Khí tròi u uất hận chia li” như trong thơ Xuân Diệu. Mà là cả một “rừng tre” đang “phấp phới” trong nắng gió thu chan hoà. Bầu trời thu như khoác một chiếc áo mới thanh, tàn và như đang “nói cười thiết tha” của bầu trời chính là niềm vui phấp phới trong lòng người và tiếng nói cười thiết tha trong mỗi tâm hồn Việt. Có nhớ lại những ngày thu tháng Tám trong niềm vui quê hương, được giải phóng của Tố Hữu, ta mới thấy hết “tiếng nói cười thiết tha” trong thơ Nguyễn Đình Thi.
Ôi thiên đường ta miên man lắng nhạcĐó chính là niềm vui của người thi sĩ dạt dào bất tận, một niềm vui tràn ngập cả bầu trời, không gian. Người đọc cảm nhận được niềm vui ấy qua cách bộc lộ trực tiếp “Tôi đứng vui nghe” và qua mỗi hình tượng, ngôn ngữ thơ. Và đặc biệt là qua nhạc điệu rộn rã, tươi vui trong sáng của đoạn thơ. Người ta không còn thấy ở đây những hình ảnh thơ thu ước lệ và xa lạ như thơ thu cổ điển. Nó cũng không mang vẻ đài các mùa thu trong thơ mới mà rất đỗi bình dị thân thuộc. Hình tượng đất nước hiện diện trong những hình ảnh mà chúng ta tiếp xúc, chung sống, nhìn ngắm mỗi ngày. Tất cả hội tụ tạo thành không gian thu đầy màu sắc, ánh sáng, âm thanh, đầy ắp sự sống và tràn căng sinh lực.
Trời xanh đây là của chúng taTrong cái nhìn mê say của nhà thơ, đất nước ta nơi nào cũng tươi đẹp, cũng dài rộng bát ngát, cũng màu mỡ phì nhiêu. Điệp cấu trúc câu “của chúng ta” vang lên dõng dạc, tự hào cùng biện pháp tu từ liệt kê “...những... những... những...” như khẳng định thêm một lần nữa chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước. Rất tự nhiên, cách xưng hô của chủ thể trữ tình có sự chuyển đổi sâu sắc, bắt đầu từ tiếng nói trữ tình của cái “tôi” dần dần chuyển hoá thành cái “ta” cộng đồng dân tộc. Cách gieo vần chân âm mở “ta., ta., mát., ngát., sa. ta” gựi cảm giác của tiếng reo vui, vang xa như tiếng đồng vọng ngân nga trong lòng người có nhớ lại những cuộc chiến đấu ác liệt giành giật từ tay quân thù, từng góc phố, con đường, từng khúc sông, ngọn núi. Tạ mới hiểu vì sao Nguyễn Đình Thi lại say sưa khẳng định về bầu trời, mặt đất, cánh đồng, dòng sông, con đường – những cái hùng vĩ lớn lao tượng trưng cho đất nước. Có nhớ lại bao đầu rơi máu chảy, có đặt mình vào vị trí của những người dân bị “Thằng giặc Tây, thằng chúa đất: Đứa đè cổ, đứa lột da”, có đặt mình vào địa vị của người chiến sĩ với “những đêm dài hành quân nung nấu”... ta mới hiểu được niềm vui sướng tự hào của Nguyễn Đình Thi khi viết những dòng này.
Núi rừng đãy là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:44
Cảm hứng về đất nước là nguồn cảm hứng lớn, bao trùm nền văn học cách mạng Việt Nam. Với bài thơ Đất nước, Nguyễn Đình Thi đã tìm thấy tiếng nói riêng, thể hiện cảm xúc riêng của mình trong nguồn cảm hứng đã trở thành truyền thống này.
Bài thơ Đất nước được hình thành vào năm 1955, sau khi dân tộc ta đã dành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Song thời điểm sáng tác toàn bộ bài thơ lại không hoàn toàn chỉ là năm 1955. Phần đầu của bài thơ có sử dụng một số đoạn của 2 bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949) của chính tác giả Từ dòng 1 đến dòng 7, tác giả sử dụng lại những câu thơ của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, tuy có thay đổi một số từ và riêng dòng 3 đã thay đổi hẳn; nguyên văn là:
Sáng mát trong như sáng năm xưaTừ dòng 13 đến dòng 21 là sử dụng lại của bài Đêm mít tinh, tác giả chỉ thay trời sao thành trời xanh trong câu “Trời xanh đây là của chúng ta” và xóm đồng thành cánh đồng trong câu “Những cánh đồng thơm mát”.
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ non thơm mãi dấu chân em
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngỗ vắng
Thềm cũ lối ra đi
Lá rụng đầy.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:46
Nguyễn Đình Thi – một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình… mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gũi với mọi người. Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948-1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh và Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ.
Sáng mát trong như sáng năm xưaNguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm, lạnh trong lòng Hà NộiKhổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ảnh “sáng”. Nhưng ánh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ “trong lòng Hà Nội”. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh.
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu nay khác rồiMột lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ “khác” dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cũng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời thu thay áo mớiMùa thu như được nhân hoá. Và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc.
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đay là của chúng taCác câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn, tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào.
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng taNhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương.
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ôi những cánh đồng quê chảy máuNhững câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời., gợi ra một nỗi đau khôn cùng.
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quần nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Từ những nam đau thương chiến đấuCâu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ “ngời” và “bật” được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự toả sáng, sức sống của dân tộc.
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắtĐã khắc hoạ trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh “bát cơm chan đầy nước mắt” là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau. Sự xót xa của con người trong nô lệ, Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa… như bao căm thù và uất hận được dồn lại.
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đe cổ, đứa lột da
Xiềng xích chúng bay không khoá đượcCấu trúc “không”, “đầy” như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Việt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc.
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núiĐó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả.
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Súng nổ rung trời giận giữHai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam.
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:46
Bài thơ Đất nước được hình thành trong cả một quãng thời gian dài (1948-1955). Lần đầu tiên được đưa vào tập Chiến sĩ (1956). Bài thơ được tổ hợp từ một số bài thơ khác như Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Đây là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ mang rõ phong cách Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bao trùm của Đất nước là lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha, ý thức độc lập tự chủ, là lòng tự hào về đất nước và nhân dân anh hùng, từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng. Trong đó Nguyễn Đình Thi đã viết đoạn mở đầu bài thơ vẻ hình ảnh Hà Nội thật đặc sắc. Đó là một bức tranh thu Hà Nội những ngày tác giả rời thủ đô đi chiến đấu và hình ảnh người ra đi rất kiên quyết mà lưu luyến qua những nét vẽ tinh tế chân thực và thấm đẫm cảm xúc:
Sáng mát trong như sáng năm xưaBài thơ Đất nước không viết về mùa thu nhưng khởi nguồn cảm hứng cho nhà thơ nghĩ về đất nước là một buổi sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc mang đậm đặc trưng thu của Việt Nam với bầu trời trong xanh, làn gió mát thổi nhẹ hoà lẫn với hương cốm ngạt ngào. Là một nghệ sĩ – chiến sĩ của thời đại cách mạng, Nguyễn Đình Thi không cảm nhận mùa thu bằng những hình ảnh ước lệ trong thơ cổ điển “Sen tàn, cúc nở hoa, lá ngô đồng rụng”, “Ngô đồng nhất lạc diệp – Thiên hạ cộng tri thu”; cũng không đón mùa thu bằng những tín hiệu “rặng liễu rủ” như thiếu nữ buông tóc dài yểu điệu thướt tha. Ở đây, nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng hương cốm mới. Các nghệ sĩ đặc biệt yêu món ăn Việt Nam đều ca ngợi vẻ đặc sắc, độc đáo của cốm “Mỗi năm cứ thấy gió mùa thu nổi sóng trên đồng lúa miền Bắc là nhiều người lại nhắc đến cốm Vòng – cái món quà thơm lành của ruộng lúa nếp ngoại thành Hà Nội” (Nguyễn Tuân). “Nhưng thơm ngọt ngào mùi đất nước quê hương, đó có cái gì sánh được với cốm Vòng” (Vũ Bằng). Và Thạch Lam trong bài “quà Hà Nội” cũng viết “Cốm… mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam”. Như vậy, chỉ với hình ảnh “hương cốm mới”, Nguyễn Đình Thi vừa gọi được thời gian, không gian thu, vừa bộc lộ được tấm lòng yêu nước thật bình dị mà không kém phần sâu lắng; thiết tha của mình.
……
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Ơ hay! Buồn vương cây ngô đồngCái “chớm lạnh” có giá trị gợi cảm như thế càng khiến cho những từ tiếp theo có sức gợi tả đặc biệt: “trong lòng Hà Nội”. Đó là trong lòng thành phố Hà Nội, trong không gian thu Hà Nội hay cả trong lòng người Hà Nội nữa? Cái “chớm lạnh” trong buổi sáng đầu thu quả có sức lan toả và gây nhiều xúc cảm cho người đọc.
Vàng rơi! Vàng rơi! thu mênh mông!
Người ra đi đầu không ngoảnh lạiĐã có nhiều ý kiến khác nhau về hình ảnh người ra đi trong hai câu thơ trên. Có người cho rằng đó là những chiến sĩ vệ quốc quân rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc. Lại có ý kiến gắn hình ảnh người ra đi với sự kiện Trung đoàn Thủ Đô rút khỏi Hà Nội sau 60 ngày đêm cầm chân giặc. Ý kiến này có vẻ không hợp lý bởi lẽ Trung đoàn Thủ Đô rút khỏi Hà Nội là vào một đêm mùa xuân 1947, không phù hợp với khung cảnh “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửaNgười ra đi kiên quyết từ giã quê hương vì đại nghĩa nhưng trong tâm tưởng, hình ảnh quê hương vẫn hiện ra rất sinh động và cụ thể. Nếu không có một tấm lòng gắn bó yêu thương tha thiết với Hà Nội, Hà Nội tài hoa, Hà Nội thanh lịch, với ngàn năm văn hiến… thì dễ gì có thể nhận ra được một khung cảnh thật tinh tế và nên thơ như vậy: “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trẻ chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
(Ngày về – Chính Hữu)
Gió thổi mùa thu vào Hà NộiTuy nhiên, dù nhịp ngắt theo kiểu nào thì câu thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã vẽ lên được một khung cảnh rất thu của Hà Nội trước đây. Câu thơ gợi lên một khung cảnh rất đẹp nhưng có cái gì đó tĩnh lặng, hoang vắng, man mác buồn. Đó là tâm trạng buồn rất thực của những người rời Hà Nội vì mục đích, lẽ sống cao cả. Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét “Đây là cái buồn của một sự đoạn tuyệt lặng lẽ, tự chủ” (Thơ và lời bình). Hà Nội, qua tâm tưởng của người ra đi hình như chì còn màu vàng rực của nắng, lá rơi đầy thềm. Hà Nội đã vắng hẳn bóng người đi lại tấp nập hồi nào. Trong thực tế chưa hẳn Hà Nội đã hết người. Nhưng hình ảnh thơ lại như vậy. Vì tả cảnh trước hết là để tả tình Và nổi lên trên bức tranh thu Hà Nội với những hình khối, màu sắc và ánh sáng đầy ấn tượng vẫn là hình ảnh người chiến sĩ vừa hiên ngang kiên nghị, vừa có nét hào hoa tinh tế, gắn bó thiết tha vcd quê hương. Hình ảnh này làm ta nhớ đến hình, ảnh tráng sĩ một thuở kiên quyết lên đường vì đại nghĩa với tâm hồn lãng mạn mộng mơ có sức hấp dẫn mạnh mẽ được diễn tả khá sinh động và đẹp đẽ trong thơ Thâm Tâm, Quang Dũng:
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
Thềm cũ lối ra đi Lá rụng đầy
Tây Tiến người đi không hẹn ướcNhịp điệu của câu thơ cuối nói riêng, đoạn thơ nói chung cũng đã góp phần diễn tả cái tâm trạng rất thực của người ra đi nói trên: chậm rãi đều đều trầm lắng như nhịp bước của người ra đi, quả quyết và lưu luyến, lặng lẽ, mà xao động. Lá rơi, nắng rơi, rơi đầy thềm và rơi đầy khoảng nhớ mênh mông của người ra đi.
Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/03/2015 10:46
Bài thơ thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi về đất nước. Đó là một đất nước phải chịu bao đau thương và mất mát nhưng luôn hiên ngang bất khuất, đất nước vốn có truyền thống anh hùng. Cảm xúc về đất nước ấy được thể hiện bằng nghệ thuật sáng tạo hình ảnh, kết cấu độc đáo, ngôn ngữ và giọng điệu giàu hình ảnh, giàu chất trữ tình, gợi cảm. Bài thơ tuy được sáng tác trong một khoảng thời gian dài nhưng cảm xúc liền mạch và thể hiện rất chính xác logic tình cảm. Hình ảnh và cảm xúc thơ có sự vận động, thể hiện một cách rất tinh tế sự đổi thay của đất nước.
Mạch suy tưởng và cảm xúc của nhà thơ về đất nước được chia làm ba phần:
– Phần 1 (7 câu thơ đầu): Hình ảnh mùa thu Hà Nội được tái hiện trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, đó là một mùa thu đẹp nhưng buồn. Đoạn thơ như một bức tranh đẹp, sinh động, có cảnh, có người. Người và cảnh đều rất đặc trưng cho Hà Nội, có tư thế và tâm trạng của người ra đi vì nghĩa lớn. Biểu tượng cho một thời kì đau thương của đất nước – những ngày chưa có độc lập.
– Phần 2 (từ câu 8 đến câu 21): Hình ảnh đất nước trong một mùa thu mới, mùa thu chiến thắng, mùa thu cách mạng nơi chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người đều vui tươi, nhịp thơ hồ hởi, phấn chấn thể hiện niềm vui của cả dân tộc. Đồng thời khẳng định quyền làm chủ đất nước của dân tộc Việt Nam. Biện pháp lặp cú pháp đã thể hiện một cách tự tin và hùng hồn quyền làm chủ Đất nước của Nhân dân.
– Phần 3 (phần còn lại): Hồi tưởng hình ảnh đất nước đau thương, suy tưởng và tự hào về truyền thống và sức mạnh của dân tộc. Hình tượng đất nước đau thương (câu 22,23), sức mạnh quật khởi (câu 26 đến câu 28, câu 38 đến hết), tinh thần bất khuất (câu 34 đến câu 35).
Ngôn ngữ thơ trong bài Đất nước giàu tính hình tượng, độc đáo và có khả năng khái quát cao. Cảm xúc thơ chân thực, tinh tế và mãnh liệt. Bài thơ vừa có ý nghĩa khái quát, vừa thể hiện được cảm xúc có ý nghĩa lịch sử.