送中使武適之

五色雲邊出使星,
凜然忠義照人明。
春臨梅驛霜蹄急,
雪霽淮潮玉節清。
天地北南雙眼闊,
山河夷險寸心平。
慇懃今日送君別,
杯酒難勝萬里情。

 

Tống Trung sứ Vũ Thích Chi

Ngũ sắc vân biên xuất sứ tinh,
Lẫm nhiên trung nghĩa chiếu nhân minh.
Xuân lâm Mai dịch sương đề cấp,
Tuyết tễ Hoài triều ngọc tiết thanh.
Thiên địa bắc nam song nhãn khoát,
Sơn hà di hiểm thốn tâm bình.
Ân cần kim nhật tống quân biệt,
Bôi tửu nan thăng vạn lý tình.

 

Dịch nghĩa

Bên áng mây năm sắc xuất hiện ngôi sao sứ thần,
Khí tiết trung nghĩa lẫm liệt dọi sáng lòng người.
Xuân tới trạm Mai, vó ngựa trong sương vội vã,
Tuyết quang Hoài Thuỷ, tiết ngọc trong sáng.
Trời đất có bắc có nam, tầm mắt thênh thang,
Núi sông chỗ bằng chỗ hiểm, tấc lòng trung trinh.
Hôm nay ân cần tiễn biệt ngài,
Chén rượu khôn ngăn mối tình muôn dặm.


Trung sứ có nghĩa người đại diện tạm thời cho vua thực hiện công việc nhất định.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đào Phương Bình

Bên cạnh năm mây hiện sứ lang,
Bừng bừng toả khắp khí trung lương.
Tuyết quang Hoài Thuỷ dương cờ tiết,
Xuân tới mai đình, giục vó sương.
Trời đất bắc nam, nhìn bát ngát,
Non sông bình hiểm dạ thênh thang.
Tiễn đưa xiết kể bâng khuâng nỗi,
Chén rượu khôn ngăn tứ dặm trường.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Ngũ sắc hiện sao sứ sáng hình
Oai người trung nghĩa rọi bình minh
Sang xuân Mai Lĩnh sương chân gấp
Tuyết tạnh Tần Hoài tiết đẹp thanh
Trời đất bắc nam tầm mắt rộng
Non sông bình hiểm tấc lòng trinh
Hôm nay chu đáo đưa Trung sứ
Chén rượu khó mang vạn dặm tình.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đồng Thành

Họ Lê nước Việt nức hương,
Làng văn xuất hiện phi thường chính ông.
Lưu quan họ Khấu dân mong,
Triều đình sứ giả nhọc lòng nhớ Trương.
Nước thu quét sạch bụi đường,
Gió xuân mình ngựa ruổi phương xa nhà.
Chuyên hồi sớm đến Nam Đài,
Khi về Quỳ, Vũ đem tài giúp vua.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời