江行次洪州檢正韻

長江滾滾片帆東,
海闊天高望莫窮。
夾岸船窗青草雨,
前沙棹影白蘋風。
百年豪傑戰爭地,
萬古山河帶礪功。
憑仗新詩作圖誌,
行觀四海軌文同。

 

Giang hành thứ Hồng Châu kiểm chính vận

Trường giang cổn cổn phiến phàm đông,
Hải khoát thiên cao vọng mạc cùng!
Giáp ngạn thuyền song thanh thảo vũ,
Tiền sa trạo ảnh bạch tần phong.
Bách niên hào kiệt chiến tranh địa,
Vạn cổ sơn hà đới lệ công,
Bằng trượng tân thi tác đồ chí.
Hành quan tứ hải quĩ văn đồng.

 

Dịch nghĩa

Dòng sông cuồn cuộn, cánh buồm về đông,
Biển rộng trời cao, trông không biết đâu là cùng!
Cửa sổ thuyền giáp bờ, làn mưa trên cỏ xanh,
Bóng mái chèo trước bãi cát, luồng gió trên rau tần trắng.
Đây là nơi chiến trận của các hào kiệt từ hàng trăm năm trước,
Công lao ấy làm cho non sông bền vững lâu dài muôn thuở.
Xin nhờ bài thơ mới này làm bức hoạ đồ ghi lại,
Rồi sẽ thấy bốn biển chung một kiểu xe, cùng một thứ chữ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đào Phương Bình

Sông dài cuồn cuộn, cánh buồm dong,
Biển rộng trời cao, mắt chẳng cùng.
Thuyền lướt cạnh bờ, mưa cỏ tốt,
Chèo khua trước bãi, gió tần rung.
Trăm năm hào kiệt, trường chinh chiến,
Muôn thuở sơn hà, dấu kiếm cung.
Thơ mới nhờ ghi tranh mấy nét,
Xa, thư bốn biển sẽ thông đồng.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Dòng sông cuồn cuộn buồm về đông,
Biển rộng trời cao trông chẳng cùng!
Thuyền lướt gần bờ mưa biếc cỏ,
Mái chèo trước bãi gió tần rung.
Nơi đây chiến trận trăm năm trước,
Muôn thuở công đầu giữ núi sông.
Thơ mới nhờ tranh ghi mấy nét,
Chữ xe bốn biển sẽ chung cùng.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời