泊阮家陵

扁舟天德繫斜暉,
亡阮荒丘已昔時。
肅肅遺靈藏澤樹,
青青古色枕江祠。
桐棺無復成龍氣,
華表惟存宿鶴枝。
凝佇百年成一慨,
黃昏小立自哦詩。

 

Bạc Nguyễn gia lăng

Biển chu Thiên Đức hệ tà huy,
Vong Nguyễn hoang khâu dĩ tích thì.
Túc túc di linh tàng trạch thụ,
Thanh thanh cổ sắc chẩm giang tì (từ).
Đồng quan vô phục thành long khí,
Hoa biểu duy tồn túc hạc chi.
Ngưng trữ bách niên thành nhất khái,
Hoàng hôn tiểu lập tự nga thi.

 

Dịch nghĩa

Chiếc thuyền con buộc trong bóng chiều trên sông Thiên Đức,
Mồ hoang họ Nguyễn cũ đã thành việc xưa.
Khí thiêng lẫm liệt còn lẩn quất ẩn ở chòm cây bền chằm,
Mầu cổ xanh xanh, ngôi đền vẫn gối bên sông.
Quan tài cổ vông khôn trở lại khí rồng bay,
Cột hoa biểu chỉ còn là cành hạc đậu,
Đứng lặng suy nghĩ, cảm khái việc trăm năm,
Hoàng hôn rồi, đứng lại chốc lát một mình ngâm thơ.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đào Phương Bình

Đức giang, thuyền buộc tà dương,
Cơ đồ triều Lý gò hoang đã thành.
Cây chằm phảng phất u linh,
Bên sông cổ miếu rêu xanh dãi mầu.
Rồng thiêng thuở nọ còn đâu,
Cột hoa trơ đó hạc nào qua thăm.
Ngậm ngùi thay cuộc trăm năm,
Quay lưng bóng xế thơ ngâm một mình.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Thuyền chiều buộc ở Đức giang
Mồ hoang họ Nguyễn đã thành việc xưa
Cây chằm linh khí còn lưa
Bên sông miếu cổ nắng mưa dãi dầu
Rồng thiêng ngày trước rồi đâu
Cột hoa trơ đó bao lâu hạc về
Trăm năm nghĩ lại buồn ghê
Một mình bóng xế ngâm thơ ngậm ngùi

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Thiên Đức buộc thuyền dưới nắng tà
Mộ hoang Nguyễn tộc chuyện thời xa
Chằm cây, lẫm liệt hồn linh ẩn
Đền gối sông xanh sắc khí hoà
Rồng thế ngày nào không lại mộ
Hạc tùng đêm đậu cột lăng hoa
Trăm năm đứng lặng lòng thương cảm
Dừng chút thơ ngâm tắt bóng tà.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Có thể thêm một bài thơ của Nguyễn Phi Khanh

Theo tác giả Lê Tư - Nghiên cứu Lịch sử. Bài thơ dưới đây của Nguyễn Phi Khanh:
<<Do tranh chấp quyền lực thượng tầng, việc quản lý quan lại phụ trách hành chánh dường như bị buông lơi. Chúng ta thấy năm 1399, Ứng Long tránh xa rối rắm trong triều bằng cách theo đuổi thú nhàn ngay giữa đô thành.

城西大隐廬口占

宦途四十五年身
城巿戲為大隐民
竹石安排詩好景
鳥花團占酒佳賓
衡門自有安心樂
聖世何憂抱道貧
誰道趨时吾計拙
一閒風味儘吾仁

Thành tây đại ẩn lư khẩu chiếm (6)

Hoạn đồ tứ thập ngũ niên thân,
Thành thị huy vi đại ẩn dân.
Trúc thạch an bài thi hảo cảnh,
Điểu hoa đoàn chiếm tửu giai tân.
Hoành môn tự hữu an tâm lạc,
Thánh thế hà ưu bão đạo bần.
Thuỳ đạo xu thời ngô kế chuyết,
Nhất nhàn phong vị tận ngô nhân.

Nơi nhà Đại ẩn phía tây thành, buộc miệng làm thơ

Thân bốn mươi lăm tuổi còn trên đường quan,
Giữa chốn thị thành vui làm người dân đại ẩn.
Bài trí tre, đá: cảnh đẹp cho thơ,
Chiếm trọn chim, hoa: rượu là khách quý.
Trong cánh cửa quê mùa, tự có niềm vui của “tâm an”,
Giữa đời vua thánh cần chi phải lo cái nghèo do “ôm đạo”.
Ai bảo mình tính kế vụng về nên không hợp thời?
Phong vị nhàn chính là cái thiện lương hết mực của ta.

Năm này, Quý Ly cưỡng bức Thuận tông đi tu Đạo giáo, dời ra ở quán Ngọc Thanh (Quảng Ninh nay), sau đó sai người ám hại. Nhóm quan tướng trung thành Trần Hãng, Trần Khát Chân phản ứng, mưu sát họ Hồ tại hội thề Đốn Sơn (Thanh Hoá nay) nhưng thất bại, bị truy sát trên 370 người. Sau sự biến, Quý Ly tự xưng Quốc Tổ Chương Hoàng, Hán Thương xưng Nhiếp thái phó, Nguyên Trừng được chức Tư Đồ. Vấn đề quan trọng của quan lại thời điểm ấy rõ rệt là việc chọn phe nào giữa Hồ và Trần. Quyền thế mới vun trồng nhóm xu thời mới, riêng Ứng Long vì hoàn cảnh đặc biệt nên khó dứt khoát chọn phe nào. Bài thơ trên đây cho thấy xu thế ngả về họ Hồ của Ứng Long không hình thành trong một sớm một chiều, qua một định ngữ nho gia thường dùng để chỉ triều đại mình phục vụ, Ông khẳng định triều Trần vẫn là “thánh thế”.>>

*Chú Thích của Tác giả Lê Tư về nguồn của bài thơ này:
(6) Hoàng Khôi (dịch), Nguyễn Trãi toàn tập, tập thượng, quyển 2, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin (tái bản 2001), trang 184. Bài này Thơ văn Lý – Trần tập III xếp vào mục tác giả Trần Thuấn Du.
Đề nghị Thi Viện nghiên cứu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Về bài thơ “Thành tây đại ẩn lư khẩu chiếm”

Chào bác. Bài thơ này trên TV cũng đã có nhưng để trong mục tác giả Trình Thuấn Du theo Hán văn Lý Trần:
http://www.thivien.net/Tr...em-SI7RABw8KRTqg52K5uqg6Q

Về ý kiến của tác giả Lê Tư, hiện chưa có căn cứ rõ ràng nên tạm thời TV vẫn giữ nguyên tác giả bài thơ. Nếu có thông tin khảo cứu rõ ràng hơn thì TV sẽ xem xét.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Thiên Đức thuyền con trong bóng chiều,
Mồ hoang họ Nguyễn việc xưa nhiều.
Khí thiêng lẫm liệt còn đâu đó,
Mầu cổ xanh đền sông gối chiều.
Rồng khí ngày nào không lại mộ,
Cột hoa trơ đó hạc bay liều,
Trăm năm đứng lặng còn thương cảm,
Mình một ngâm thơ chốc lát chiều.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đồng Thành

Thuyền con Thiên Đức bóng chiều,
Mồ hoang họ Nguyễn kể nhiều việc xưa.
Khí thiêng lẫm liệt còn thừa,
Gối sông đền cổ xanh mờ chiều rơi.
Không rồng lại mộ khí rời (1),
Hạc bay liều đậu ngoài trời cột trơ,
Trăm năm đứng lặng thương ôi,
Hoàng hôn lặng đứng ngâm thơ một mình.


(1) Khí rời tức không còn khí tốt khí của rống tức không long mạch.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời