Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Ngư Tiều y thuật vấn đáp
Đăng bởi Vanachi vào 12/11/2005 17:38
Ai mà rõ lẽ ngũ hành,
400. Việc trong trời đất dữ lành trước hay.
Trên thời mưa móc, gió mây,
Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.
Giữa thời nhà cửa, đền đài,
Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.
405. Ví dù tạo hoá mấy lò,
Hoá công mấy thợ, một pho ngũ hành.
Muốn coi phép ấy cho tinh,
Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.
Ngư rằng: Nơi ải Thiên Can,
410. Có non Ngũ Vận để toan việc gì?
Chưa hay chủ vận là chi?
Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng?
Dẫn rằng: Mười chữ thiên can,
Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.
415. Anh em một gái, một trai,
Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,
Giáp, Ất: mộc, ở đông phương,
Bính, Đinh: hoả, ở nam phương tỏ tường.
Mậu, Kỷ: thổ, ở trung ương,
420. Canh, Tân: kim, ở tây phương ấy thường.
Nhâm, Quý: thuỷ, ở bắc phương,
Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.
Năm ngôi chủ vận chẳng dời,
Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.
Chủ vận thi
(Bài thơ về chủ vận)
Dịch nghĩa:
Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn;
Hoả vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;
Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;
Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu;
Thuỷ vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;
Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.
425. Năm nhà đều có túc duyên,
Vợ chồng phối hợp, tách miền theo nhau.
Anh Giáp, chị Kỷ cưới nhau,
Hoá ra vận thổ, trước sau chẳng lầm.
Ất, Canh hợp lại hoá câm,
430. Đinh, Nhâm hợp lại hoá trầm mộc cây.
Bính, Tân hoà thuỷ nước đầy,
Anh Mồ, chị Quý hoá vầy hoả quang.
Muốn coi năm hoá tạo đoan.
Gọi rằng khách vận, này chàng nghe thơ.
Khách vận thi
(Bài thơ về khách vận)
Dịch nghĩa:
Giáp Kỷ hoá ra thổ, Ất Canh hoá ra Kim,
Đinh Nhâm hoá ra mộc, tất cả thành rừng,
Bính tân hoá ra thuỷ, chảy đi cuồn cuộn,
Mậu Quý hoá ra hoả, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.