Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Đình Chiểu » Lục Vân Tiên
Đăng bởi Vanachi vào 26/07/2005 13:03
Trường thi một lũ vừa về.
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
“Anh về nay đã hai rằm,
“Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây.
851. Tiên rằng tôi vốn chẳng may,
“Chẳng hay chư hữu khoa nầy thế nao?.”
Hâm rằng: “Tử Trực đậu cao,
“Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân,
“Một mình về trước viếng thân,
“Hai người trở việc còn lần đi sau.
“Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
“Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
“Từ đây tới quận Đông thành,
“Trong mình có bệnh, bộ hành sao xong.
861. Lần hồi đến chốn Giang trung,
“Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau.”
Tiên rằng: “Tình trước ngãi sau,
“Có thương xin khá giúp nhau phen này.”
Hâm rằng: “Anh tạm ngồi đây,
“Tiểu đồng người tới trước nầy cùng ta.
“Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
“Phòng khi sông biển phong ba bất kỳ.”
Tiểu đồng vội vã ra đi,
Muốn cho đặng việc quản gã lao đao.
871. Trịnh Hâm trong dạ gươm đao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
“Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu nầy mới xong.”
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
“Có đâu địa hăm thiên băng thình lình.
“Bấy lâu đất khách lưu linh,
“Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
881. “Nay đà hai ngả phân nhau,
“Còn ai nâng đỡ trước sau cho mình.”
Hâm rằng: “Anh chớ ngại tình,
“Tôi xin đưa tới Đông thành thời thôi.”
Vân Tiên chi xiết luỵ rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
“Phận mình đã mắc tai nàn,
“Cảm thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
891. “Xiết bao những nỗi dật dờ,
“Đà giang nào biết, bụi bờ nào hay.
“Vân Tiên hồn có linh rày,
“Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùng!”
Vái rồi luỵ nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.
901. Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn, kẻ bán, chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng,
Bữa qua có thấy người tang chăng là?
Quán rằng thôi đã ra ma,
“Khi mai làng xóm người đà đi chôn.”
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: “Biết chỗ nào chôn chỉ chừng.”
911. Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: “Thằng nào tới đây?”
Đồng rằng: “Tớ tới kiếm thầy,
“Chẳng hay người thác mả nầy là ai?”
Người nầy: “Một gã con trai,
“Ở đâu không biết lạc loài đến đây.
“Chưn, tay, mặt, mũi tốt thay,
“Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương.”
921. Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi!
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại đề,
Sớm đi khuyến giáo, tối về quảy đơm.
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.
931. Thứ nầy đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn luỵ nhỏ chứa chan,
Cảm thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
941. Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.