Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Lý Hoa
Đăng bởi tôn tiền tử vào 16/02/2019 23:55
浩浩乎平沙無垠,敻不見人。河水縈帶,羣山糾紛。黯兮慘悴,風悲日曛。蓬斷草枯,凜若霜晨。鳥飛不下,獸鋌亡羣。亭長告余曰:「此古戰場也。嘗覆三軍,往往鬼哭,天陰則聞。」傷心哉!秦歟?漢歟?將近代歟?
吾聞夫齊、魏徭戍,荊、韓召募。萬里奔走,連年暴露。沙草晨牧,河冰夜渡。地闊天長,不知歸路。寄身鋒刃,腷臆誰訴?秦、漢而還,多事四夷;中州耗斁,無世無之。古稱戎、夏,不抗王師。文教失宣,武臣用奇。奇兵有異於仁義,王道迂闊而莫為。嗚呼!噫嘻!
吾想夫北風振漠,胡兵伺便。主將驕敵,期門受戰。野豎旄旗,川迴組練。法重心駭,威尊命賤。利鏃穿骨,驚沙入面。主客相搏,山川震眩。聲析江河,勢崩雷電。至若窮陰凝閉,凜冽海隅;積雪沒脛,堅冰在鬚。鷙鳥休巢,征馬踟躕,繒纊無溫,墮指裂膚。當此苦寒,天假強胡,憑陵殺氣,以相剪屠。徑截輜重,橫攻士卒;都尉新降,將軍覆沒。屍填巨港之岸,血滿長城之窟。無貴無賤,同為枯骨,可勝言哉!鼓衰兮力竭,矢盡兮絃絕。白刃交兮寶刀折,兩軍蹙兮生死決。降矣哉,終身夷狄!戰矣哉,骨暴沙礫!鳥無聲兮山寂寂,夜正長兮風淅淅。魂魄結兮天沈沈,鬼神聚兮雲冪冪。日光寒兮草短,月色苦兮霜白。傷心慘目,有如是耶!
吾聞之:牧用趙卒,大破林胡,開地千里,遁逃匈奴。漢傾天下,財殫力痡。任人而已,其在多乎?周逐玁狁,北至太原,既城朔方,全師而還。飲至策勳,和樂且閑。穆穆棣棣,君臣之間。秦起長城,竟海為關;荼毒生靈,萬里朱殷。漢擊匈奴,雖得陰山,枕骸遍野,功不補患。
蒼蒼蒸民,誰無父母?提攜捧負,畏其不壽。誰無兄弟?如足如手。誰無夫婦?如賓如友。生也何恩?殺之何咎?其存其歿,家莫聞知。人或有言,將信將疑。悁悁心目,寢寐見之。布奠傾觴,哭望天涯。天地為愁,草木淒悲。弔祭不至,精魂何依?必有凶年,人其流離。嗚呼噫嘻!時耶命耶?從古如斯。為之奈何?守在四夷。
Hạo hạo hồ bình sa vô ngân, quýnh bất kiến nhân. Hà thuỷ oanh đới, quần sơn củ phân. Ảm hề thảm tuỵ, phong bi nhật huân. Bồng đoạn thảo khô, lẫm nhược sương thần. Điểu phi bất há, thú đĩnh vong quần. Đình trưởng cáo dư viết: “Thử cổ chiến trường dã. Thường phúc tam quân, vãng vãng quỷ khốc, thiên âm tắc văn.” Thương tâm tai! Tần dư? Hán dư? Tương cận đại dư?
Ngô văn phu Tề, Nguỵ dao thú, Kinh, Hàn triệu mộ. Vạn lý bôn tẩu, liên niên bạo lộ. Sa thảo thần mục, hà băng dạ độ. Địa khoát thiên trường, bất tri quy lộ. Ký thân phong nhận, phức ức thuỳ tố? Tần, Hán nhi hoàn, đa sự tứ di; Trung Châu háo dịch, vô thế vô chi. Cổ xưng nhung, hạ, bất kháng vương sư. Văn giáo thất tuyên, võ thần dụng kỳ. Kỳ binh hữu dị ư nhân nghĩa, vương đạo vu khoát nhi mạc vi. Ô hô! Y hy!
Ngô tưởng phù bắc phong chấn mạc, Hồ binh tứ tiện. Chủ tướng kiêu địch, kỳ môn thâu chiến. Dã thụ mao kỳ, xuyên hồi tổ luyện. Pháp trùng tâm hãi, uy tôn mệnh tiện. Lợi thốc xuyên cốt, kinh sa nhập diện. Chủ khách tương bác, sơn xuyên chấn huyễn. Thanh tích giang hà, thế băng lôi điện. Chí nhược cùng âm ngưng bế, lẫm liệt hải ngung; tích tuyết một hĩnh, kiên băng tại tu. Chí điểu hưu sào, chinh mã trì trù, tăng khoáng vô ôn, đoạ chỉ liệt phu. Đương thử khổ hàn, thiên giả cường Hồ, bằng lăng sát khí, dĩ tương tiễn đồ. Kính tiệt truy trùng, hoành công sĩ tốt; đô uý tân hàng, tướng quân phúc một. Thi điền cự cảng chi ngạn, huyết mãn trường thành chi quật. Vô quý vô tiện, đồng vi khô cốt, khả thắng ngôn tai! Cổ suy hề lực kiệt, thi tận hề huyền tuyệt. Bạch nhận giao hề bảo đao chiết, lưỡng quân túc hề sinh tử quyết. Giáng hỹ tai, chung thân di địch! Chiến hỹ tai, cốt bạo sa lịch! Điểu vô thanh hề sơn tịch tịch, dạ chính trường hề phong tích tích. Hồn phách kết hề thiên trầm trầm, quỷ thần tụ hề vân mạc mạc. Nhật quang hàn hề thảo đoản, nguyệt sắc khổ hề sương bạch. Thương tâm thảm mục, hữu như thị gia!
Ngô văn chi: mục dụng triệu tốt, đại phá lâm hồ, khai địa thiên lý, độn đào hung nô. Hán khuynh thiên hạ, tài đàn lực phô. Nhậm nhân nhi dĩ, kỳ tại đa hồ? Chu trục hiểm duẫn, bắc chí thái nguyên, ký thành sóc phương, toàn sư nhi hoàn. Ẩm chí sách huân, hoà nhạc thả nhàn. Mục mục lệ lệ, quân thần chi gian. Tần khởi trưởng thành, cánh hải vi quan; đồ độc sinh linh, vạn lý châu ân. Hán kích hung nô, tuy đắc âm sơn, chẩm hài biến dã, công bất bổ hoạn.
Thương thương chưng dân, thuỳ vô phụ mẫu? Đề huề phủng phụ, uý kỳ bất thọ. Thuỳ vô huynh đệ? Như túc như thủ. Thuỳ vô phu phụ? Như tân như hữu. Sinh dã hà ân? Sát chi hà cữu? Kỳ tồn kỳ một, gia mạc văn tri. Nhân hoặc hữu ngôn, tướng tín tướng nghi. Quyên quyên tâm mục, tẩm mị kiến chi. Bố điện khuynh trường, khốc vọng thiên nhai. Thiên địa vi sầu, thảo mộc thê bi. Điếu tế bất chí, tinh hồn hà y? Tất hữu hung niên, nhân kỳ lưu ly. Ô hô y hy! Thì gia mệnh gia? Tòng cổ như tư. Vi chi nại hà? Thủ tại tứ di.
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 16/02/2019 23:55
Lồng lộng thay, bãi cát mênh mông, bóng người vắng ngắt! Dòng nước quanh co, rặng non cao ngất! Ngọn gió lạnh lùng, bóng chiều hiu hắt! Bụi cỏ rạc khô, hơi sương rá ngắt! Chim chóc vắng teo, muông thưa lối tắt! Có người đình trưởng bảo ta rằng: “Đó là bãi chiến-tràng ngày xưa, đã có khi ba quân đổ tạt đó; mỗi khi âm trời, quỷ khóc ma kêu, như mưa như gió!” Thương sót thay! nhà Tần ư? nhà Hán ư? hay là đời gần đây ư?
Ta nghe Kinh, Hàn, Tề, Nguỵ, đem quân đi đường; rong ruổi muôn dặm, năm năm phơi xương. Ngựa thả bãi cỏ, đêm sang đò ngang; trời cao đất rộng, đường lối minh mang; gửi thân mũi kiếm, thổn thức gan vàng.
Ta tưởng nhưng khi gió bắc ào ào, quân Hồ lẻn đến; chủ tướng khinh địch, cửa quân khai chiến. Đồng rợp tinh kỳ song đầy tổ luyện; phép nghiêm, dạ phải hãi hùng; oai tôn, mạng thành đê tiện. Tên lọt xương sâu, cát bay mặt kín; đôi quân đánh nhau, non sông chuyển biến; thế mạnh như sấm vang, tiếng reo như sóng biển. Lại như: Trời đông tháng rét, góc bể lạnh lùng: ngập vế tuyết bám, đầy râu váng đông; chim khiếp ít đến, ngựa đi ngại ngùng; bông vải không ấm, nứt da rụng lông. Đương lúc trời giá rét ấy, quân Hồ kéo vào; đánh nhau dữ dội, sát khí ào ào, xe lương bị chặn, quân sĩ xôn xao; đô uý hàng giặc, tướng quân đâu nào? Lạch lớn ngổn ngang thây trắng, hang sâu lây láng máu đào; ai sang ai hèn, cũng là xương khô một đống, nỗi thảm sầu kể xiết làm sao!
[...]
Hỡi dân xanh đầu, ai không mẹ cha; nưng niu ôm ấp, mong thọ đến già! Ai không anh em, như chân như tay; ai không vợ chồng, bầu bạn sum vầy. Sống có ai biết, chết có ai hay! Chiêm bao vơ vẩn, giọt lệ với đầy.
[...]
Gọi có chén rượu, tỏ chút lòng này. Thượng hưởng.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 17/08/2020 16:43
Bãi cát rộng bóng người nào thấy,
Núi sắp bầy nước chẩy quanh co;
Ngọn gió thảm mặt trời mờ,
Hơi sương bồng héo cỏ khô một mầu.
Chim bay bổng dám đâu sa cánh,
Muông chạy dài dám ngảnh tìm bầy;
Ông đình trưởng bảo tôi hay,
Rằng: Đây chiến địa từ ngày đời xưa.
Một đôi lúc thất cơ lỡ trận,
Mệnh ba quân vơ vẩn còn đâu,
Thường khi trời tối mịt mù,
Lắng nghe quỷ khóc ở đâu chốn này.
Nghe phân thuyết xiết thay kinh hãi,
Lòng thương tâm trăm mối xa gần;
Ấy đời Hán hay đời Tần,
Là đời thượng cổ hay gần đời nay,
Tề với Nguỵ từng khi giao thú,
Kinh với Hàn triệu mộ thuở xưa;
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Liền năm gió dập mưa sa cõi ngoài.
Cỏ bãi cát buổi mai rèo ngựa,
Nước dòng khe lội giữa canh khuya;
Rộng dài nào biết đường về,
Gửi thân mũi giáo ai thì tỏ hay.
Đài Tần Hán sau này lắm việc,
Thường đưa quân đánh chác cõi ngoài;
Trung châu mấy quận tơi bời,
Của mòn người chết chẳng đời nào không.
Xưa nghe nói quân Nhung Địch ấy,
Chẳng khi nào chống lại vương si;
Văn không dạy võ dùng kỳ,
Kỳ binh nào biết nhân nghì đạo vương,
Khi gió lạnh bắc phương thổi đến,
Quân giặc Hồ thừa tiện lấn vào,
Lại vì ông chủ tướng kiêu,
Cơ môn giáp trận quyết liều đánh nhau.
Ngoài đồng nội cờ mao cắm lớp,
Quanh dòng khe áo giáp bày hàng;
Phép nghiêm xem mệnh nhẹ nhàng,
Tên đâm xương nát cát phang mặt đầy.
Chủ với khách ra tay quyết đấu,
Tiếng hò reo vang thấu núi sông;
Ào ào nước chảy giữa dòng,
Ầm ầm sấm sét vang lòng bốn phương.
Tiết đông lạnh khí đương ngưng kết,
Chốn hải ngu lạnh rét dường bao;
Tuyết lụi vế, đá đọng râu,
Chim buông tổ nghỉ ngựa sầu đường giong.
Rét cắt thịt lụa bông cũng rét,
Tiết rét này là tiết Hồ Di;
Xe lương nó đã cướp đi,
Bao nhiêu quân sĩ nó thì đón ngang.
Đô uý đã mình hàng với giặc,
Tướng quân cùng phách thác suối vàng;
Thây đầy nội, máu đầy hang,
Xương khô nào kể kẻ sang người hèn.
Trống đánh mãi tiếng hèn sức mệt,
Cung bắn hoài tên hết giây tan;
Ngọn giáo chí, mũi gươm chen,
Đôi bên sống thác một phen quyết liều.
Hàng thì phải trọn theo mọi rợ,
Đánh thì nơi cát đá liều mình;
Chim lặng ngắt, núi vắng tanh,
Năm canh gió thổi bên mình véo von.
Trời thăm thẳm phách hồn chốn ấy,
Mây mờ mờ thần quỷ đâu đây;
Bóng dương lạnh, bóng trăng cay,
Đau lòng xót mặt dường này nữa không.
Ta nghe nói xưa ông Triệu Mục,
Từng nhiều phen khu trục quân Hồ;
Nước non rộng mở cơ đồ,
Làm cho quân giặc Hung Nô chạy dài.
Lại nghe nói những đời Hán đại,
Nghiêng nước nhà chống với Hồ Di;
Sức hèn của hết ích chi,
Tại người cho giỏi tại gì quân đông.
Đời nhà Chu đánh cùng Hiểm Doãn,
Thành Sóc Phương liền phán quân về;
Khải hoàn yến ẩm rượu chè,
Vua tôi hoà kính trăm bề vầy vui.
Đời Tần đắp thành dài tận bể,
Hại sinh linh xiết kể máu chan;
Hán tuy lấy được Âm san,
Xương khô đầy nội khôn đền vạ chung.
Thương dân ta ai không cha mẹ,
Lòng thương con bồng bế ấp yêu;
Những là rày ước mai ao,
Trông cho con được hưởng lâu tuổi trời.
Ai là chẳng có người huynh đệ,
Nghĩa đồng bào như thể tay chân;
Ai không chồng vợ tình thân,
Xem nhau như thể hữu tân một nhà.
Nghĩ khi sống ơn đà chẳng có,
Làm chết đi tội khổ chi đây;
Mất còn nhà cũng không hay,
Nghe tin luống những hồ nghi đôi đường.
Lòng thương xót mơ màng mộng mị,
Giấc chiêm bao bỗng thấy hồn về;
Đặt đàn cúng tế rượu chè,
Xa trông những chốn thiên nhi sụt sùi.
Cây cỏ thảm đất trời sầu xót,
Điếu tế không hồn trót nương đâu;
Ắt rồi liền tiếp năm sau,
Mùa màng mất mát người hầu lưu ly.
Trời hau mệnh thôi thì xiết kể,
Vốn từ xưa cũng thế khác gì,
Làm sao khỏi được vạ ni,
Chữ rằng: “thú lại tứ di” mới là.