Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
Đăng bởi Vanachi vào 17/03/2007 16:03
1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung
Mạc rầy rõ mặt tiếm cường,
Thăng long truyền nước, Nghi Dương dựng nhà.
Dỗ người lấy vẻ vinh hoa,
Nhưng lòng trung nghĩa ai mà sá theo.
Cầu phong sai sứ Bắc triều,
Dâng vàng, nộp đất nhiều điều dối Minh.
Lê thần có kẻ trung trinh,
Trịnh Ngung sang đến Bắc đình tỏ kêu.
Minh tham lễ hậu của nhiều,
Phụ tình trung nghĩa, quên điều thị phi.
Đăng Dung thoả chước gian khi,
Tuổi cao rồi lại truyền về Đăng Doanh.
Mã giang đầu xướng nghĩa thanh,
Gần xa đâu chẳng nức tình cần vương.
Được thua mấy trận chiến trường.
Nghìn thu tiết nghĩa đá vàng lưu danh.
2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê
Cành Lê có độ tái vinh,
Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiền.
Đức vua Triệu tổ ta lên,
Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng,
Sầm châu ỷ thế nguồn rừng,
Mười năm khai thác mấy từng nước non,
Dù khi đỉnh tộ suy mòn,
Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lê.
Trang Tông lưu lạc tìm về,
Chia binh Thuý Đả, mở cờ Ai Lao.
Lôi Dương một trận binh giao,
Phá tan nghịch đảng tiến vào Nghệ An
Cỏ hoa mừng rước xe loan,
Thổ hào ứng nghĩa dân gian nức lòng,
Tây đô quét sạch bụi hồng,
Dặm tràng thẳng trỏ ngọn đòng tràng khu
Hẹn ngày vào tới Đông đô,
Một hai thu phục cơ đồ thủa xưa.
Độc sao hàng tướng tiến dưa!
Trước dinh Ngũ trượng bỗng mờ tướng tinh.
3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc
Tiếc thay công nghiệp thuỳ thành,
Để cho Trịnh Kiểm thay mình thống quân
Sáu năm vừa hội hanh truân,
Đỉnh hồ đâu đã đến tuần mây che.
Trung Tông nhờ cậy dư uy,
Mạc thần mấy kẻ cũng về hiệu trung.
Biện dinh quân mạnh, tướng hùng,
Bốn phương hào kiệt nức lòng y quang.
Đông kinh trỏ ngọn việt vàng,
Phúc Nguyên Mạc chúa chạy sang Kim thành.
Thần phù thuyền giã lênh đênh,
Lại còn Kính Điển đeo tình quấy trêu.
Quan binh theo ngọn thuỷ triều,
Duyên giang một trận, nước bèo chảy tan.
Anh Tông nối nghiệp gian nan,
Tây đô một giải giang san cõi nhà.
Mạc vào xâm nhiễu Thanh Hoa,
Thái sư Trịnh Kiểm lại ra tiễu bình.
4. Nguyễn Hoàng vào Hoá Châu
Hoá Châu có đất biên thành,
Bốn bề sơn hải trời dành kim thang.
Trịnh công tâu với Lê hoàng,
Chọn người ra giữ một phương thành dài.
Bản triều Thái Tổ hùng tài,
Gióng cờ ra trấn cõi ngoài từ đây.
Việt mao khi đã đến tay,
Hoành Sơn một giải mới gây cơ đồ.
5. Trịnh Mạc phân tranh
Mặt trong đành đã khỏi lo,
Trịnh công chuyên ý trì khu cõi ngoài.
Quận Gia, quận Định mấy người,
Hưng, Tuyên binh hợp các nơi thêm dầy.
Mạc dần suy yếu từ nay,
Vận Lê xem đã đến ngày trùng hanh.
Đem quân về giữ Tây kinh,
Bể Thanh lại lặng tăm kình như không.
Nhân khi Mậu Hợp ấu trùng,
Mở đường Phố Cát, qua sông Bồ Đề.
Mạc vào, quân lại rút về,
Mạc lui, quân lại bốn bề kéo ra.
Tuyết sương trăm trận xông pha,
Trịnh công vì nước cũng đà cần lao.
6. Trịnh Tùng chấp chính
Tuổi già vừa giải tiết mao,
Con là Trịnh Cối lại vào đổng nhung.
Kiêu hoang quen thói con dòng,
Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh,
Cối, Tùng một gốc đôi cành,
Vinh khô đã khác, ân tình cũng khuê,
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xâm.
Mạc lui, Tùng mới manh tâm,
Ngoài trương thanh thế, trong cầm quyền cương.
Lại mưu tàn hại trung lương,
Vàng đưa ngoài cửa, búa trương dưới màn.
Tạ tình phụ tấm niềm đan,
Đem Lê Cập Đệ giết oan nỡ nào!
Bằng không nổi trận ba đào,
Để cho xa giá chạy vào Nghệ An.
Giá Điền vừa mới hồi loan,
Lôi Dương đã nổi tiếng oan giữa vời.
Thế tông con thứ nối đời,
Trịnh Tùng phù lập cùng loài giả danh.
7. Trịnh Tùng diệt Mạc
Cõi ngoài giặc Mạc tung hoành,
Bắc Hà cát cứ mấy thành nhân dân.
Giáng uy nhờ có lôi thần,
Nhân khi Mậu Hợp đến tuần thiên tru
Mạc thần mấy kẻ vũ phu,
Sao mai lác đác, lá thu rụng rời.
Xuất binh vừa gặp cơ trời,
Đường ghềnh len lỏi ra ngoài Thiên quan.
Tràng khu một lối duyên san,
Huyện châu gió lướt, Tràng An lửa nồng.
Bỏ thành, Mạc chạy qua sông,
Đuổi sang Phượng Nhỡn đường cùng mới thôi,
Kể từ Nguỵ Mạc tiếm ngôi,
Năm đời truyền kế sáu mươi năm chầy.
Trần ai quét sạch từ rày,
Về kinh ban yến, tiệc bầy thưởng công.