Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
1. Mở đầu
Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.
Nam Giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xưa.
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương.
2. Kinh Dương Vương
Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hoả đức gọi là Đế Minh.
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương.
Hoá cơ dựng mối luân thường.
Động đình sớm kết với nàng Thần long.
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì.
3. Lạc Long Quân và Âu Cơ
Lạc Long lại sánh ưu ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thuỷ hoả sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Quy sơn, quy hải khác người biệt ly.
Lạc Long về chốn Nam thuỳ,
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên.
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng.
4. Hùng Vương và nước Văn Lang
Hùng Vương đô ở châu Phong,
Đấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao giang.
Đặt tên là nước Văn Lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Dên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn Tây;
Định Yên, Hà Nội đổi thay,
Đấy châu Giao Chỉ xưa nay còn truyền.
Tân Hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ Ninh tỉnh Bắc, Dương Tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Đấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh;
Hoài Hoan: Nghệ; Cửu Chân: Thanh;
Việt Thường là cõi Trị, Bình Trung Châu.
Lạng là Lục Hải thượng du
Xa khơi Ninh Hải thuộc vào Quảng Yên.
Bình Văn, Cửu Đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng Vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc Hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc Tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ Chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loài.
5. Giao thiệp với Trung Hoa
Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.
Bình Dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quỳ, hoắc cũng đều hướng dương.
Thần Quy đem tiến Đào Đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đầu.
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh.
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thuỷ quái vẽ mình thổ nhân.
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái bình.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung Quốc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu Vương.
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quy.
6. Chuyện Phù Đổng Thiên Vương
Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh San,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?
7. Chuyện Sơn Tinh và Thuỷ Tinh
Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị Châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trang.
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đâu vừa thấy hai người,
Một Sơn Tinh với một loài Thuỷ Tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng Vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn Tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia.
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thuỷ Tinh lỡ bước chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hoả phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
8. Chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung
Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái Châu.
Ra vào nương náu Hà Châu.
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên Dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà,
Chử Đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng Vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hoá về Bồng Châu,
Đông An, Dạ Trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đời.
9. Hết đời Hồng Bàng
Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường Đế sau tầy Noãn Vương.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Lâm Nguyệt ngày 14/06/2014 13:22
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lâm Nguyệt ngày 14/06/2014 13:24
Giọng thơ Lục Bát trong tác phẩm lịch sử này thật hay, không khác gì Lục Bát trong Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du!
LNg.BXL.