Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
Đăng bởi Vanachi vào 17/03/2007 15:53
1. Thần Kim quy giúp vua Thục
Thục từ dứt nước Văn Lang
Đổi tên Âu Lạc, mới sang Loa thành.
Phong Khê là đất Vũ Ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục Vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim quy.
Hoá ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỷ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh Quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.
2. Trung Hoa đánh Âu Lạc
Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu Cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh Nam mấy chốn biên thuỳ,
Quế Lâm, Tượng quận thu về bản chương.
Đặt ra uý, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn.
Hai người thống thuộc đã quen,
Long Xuyên, Nam Hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thuỷ bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền.
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hoà.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu uý, Nam là Thục vương.
3. Trọng Thuỷ và Mị Châu
Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thuỷ, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc quy.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thuỷ chung
Rằng: “Khi đôi nước tranh hùng,
Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?
Trùng lai dù hoạ có ngày,
Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau.”
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.
4. Triệu Đà diệt Thục
Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu uý, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu ly,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim quy đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm tròn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?