Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
1. Những việc cải cách đầu tiên
Đông A tỏ mặt vừng hồng,
Thái tông cải hiệu Kiến Trung rõ ràng.
Trần Thừa là Thái thượng hoàng,
Chuyên quyền thính đoán, gồm đường kinh luân.
Soạn làm thông chế lễ văn,
Thuế điền đã định, số dân cũng tường.
Tướng thần mới đặt bình chương,
Huyện châu sai kẻ khoa trường trị dân,
Bạ đầu thi kẻ lại nhân.
Hiệu quân Tứ thánh, Tứ thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ Độ chuyên đường trị dân.
2. Văn học và võ công
Thượng hoàng phút đã từ trần,
Thái tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao minh đã có tư trời,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.
Sùng văn, tô tượng Khổng, Nhan,
Dựng nhà Quốc học, đặt quan Giám thần,
Bảy năm một hội thanh vân,
Anh tài náo nức dần dần mới ra.
Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái học chư sinh,
Lại thi tam giáo chia rành ba khoa.
Thân chinh trỏ ngọn thiên qua,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.
3. Phong tục đời Trần
Vì ai, đạt gánh giang san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại, coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung
Bởi ai đầu mở hôn phong,
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng!
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng,
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên Thành công chúa vu quy,
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành?
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thuỵ bà lăng líu, Trung Thành ngẩn ngơ:
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô Phật tượng, đình thờ Thích Ca.
Tin lời phong thuỷ khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc cung.
4. Đức độ và chính trị của Trần Thánh Tông
Thánh Tông hiếu hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến lạc, cõi ngoài ấm phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn nho khuya sớm giảng cầu,
Kẻ tu sử ký, người chầu kinh diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn luyện tập thuyền Cửu sa.
5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ
Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân Tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi rong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngoạ Vân.
6. Anh Tông và Minh Tông
Anh Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn đức, ngoài cần vũ công.
Có châm để dạy Đông cung.
Thuỷ vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông A.
Quyện cần rồi lại xuất gia,
Minh Tông kế thống cũng là hiền vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường mối sau.
Tiếc không biện biệt ngư châu
Để cho tà nịnh ở đầu giai ban.
Khắc Chung thêm dệt lời gian,
Quốc Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.
7. Việc đánh dẹp về đời Hiến Tông
Hiến Tông làm máy lung linh,
Nghiêm xem tinh độ vận hành không sai.
Thạch đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ công,
Đà Giang xa mã, Nam nhung tinh kỳ
Cổ quăng mấy kẻ truy tuỳ,
Nhữ Hài, Chiêu Nghĩa đều về thuỷ cung
Kiềm châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.