Thơ » Việt Nam » Hồ, thuộc Minh » Hồ Huyền Quy » Trinh thử
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/09/2014 18:52
Vừa năm Long Khánh đời Trần,
Muôn phương triều cống mười phân thái bình.
Ngụ miền Lộc đỗng cảnh thanh,
Là Hồ sinh vốn thiện danh đang thì.
Nhiều bề cách vật trí tri,
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.
Kinh thành nhân thủa ra chơi,
Lý lê thủ tướng gần nơi ngụ nhà.
Canh ba thánh thót đồng hồ,
10. Lạ nhà chưa ngủ hồ đồ xiết bao.
Bỗng nghe bên cỗi bích đào,
Tiếng con muông sủa bào hao dậy dàng.
Chẳng là chuột bạch bên tường,
Cong đuôi mà chạy vội vàng hãi kinh.
Cửa hang sẵn ở góc thành,
Chạy ngang vào đấy ẩn mình một khi.
Mất mồi muông lại chạy đi,
Trong hang dường tiếng nam nhi hỏi rằng:
“Uẩy ai quen thuộc chưa tường!
20. Đêm khuya đương đột vì chưng cớ nào?”
Hồ sinh thấy sự lạ sao,
Đến bên tường, ghé mắt vào dòm chơi.
Thấy con chuột đực nằm dài,
Lời ăn tiếng nói như người chưa khôn.
Đương khi nói ngọt, nói ngon,
Bây giờ Chuột bạch còn run như cầy.
Một giây tỉnh lại mới hay:
Vì chưng lỡ bước biết đây chốn nào.
Tới lui khôn biết làm sao,
30. Khác nào như thể cáy vào hang cua.
Dám bày nông nỗi trình thưa,
Rằng: “Tôi nhà cũng quanh co miền này.
Quá chân lạc lối tới đây,
Chẳng may bỗng gặp muông cầy bất nhân.
Phúc sao mà cũng mau chân,
Chạy vào lại được gửi thân chốn này.
Rộng cho nương náu ở đây,
Được qua nạn ấy ơn dày dám vong.”
Lời ăn tiếng nói thong dong,
40. Chàng nghe cũng động tấm lòng nước mây.
Rằng: “Sao cả quyết tới đây,
Nào chồng con ở đâu, nay làm gì?
Một mình khuya khoắt ra đi,
Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm?
Hay là nhắn cá, gửi chim,
Đêm xuân đón gió đi tìm mùi hương?
Rằng ta rộng rãi lòng thương,
Phỏng như gặp kẻ phũ phàng thì sao.”
Nàng nghe chàng nói thấp cao,
50. Nỗi mình mới kể tiêu hao xa gần:
“Thiếp nay ở mãi Đông lân,
Vì cơ thương cẩu lang quân tếch ngàn.
Mối lòng khôn xiết thở than,
Thương chồng lại xót một đàn con thơ.
Rồng rồng theo nạ sớm trưa,
Của đâu cho được dư thừa miếng ăn.
Pha phôi chẳng quản nhọc nhằn,
Chân le chân vịt nào phân đêm ngày.
Nghe quan thủ tướng bên này,
60. Cửa nhà tráng lệ, của dày bằng non.
Muốn ăn hét phải đào giun,
Pha bờ xông bụi nào còn biết e.
Đêm hôm cũng dấn mình đi,
Sang đây kiếm ít đem về làm lưng.
Ai ngờ gặp đứa gió trăng,
Cho nên khuất nẻo lạc chừng khốn thay!”
Chàng nghe nông nỗi giãi bày,
Quyết lòng cầm sắt một hai dỗ dành.
Rằng: “Nàng giải hết chân tình,
70. Thương thay phận gái một mình long đong.
Đã hay trong đạo vợ chồng,
Nghĩa sâu tình nặng há lòng chẳng thương.
Kinh quyền đôi lẽ là thường,
Được nơi tựa ngọc nương vàng thì thôi.
Chẳng lo mẹ goá con côi,
Sớm khuya loan phượng no đôi dường nào.
Chẳng lo liễu cợt hoa chào,
Bướm gìn ong giữ làm sao cho tuyền.
Vả nàng là gái thuyền quyên,
80. Phỏng khi gặp kẻ vô duyên khôn dè.
Ví mà dốc tấm lòng quì,
Giữ sao cho được trọn bề hướng dương.”
Nàng nghe ăn nói sỗ sàng,
Muôn sầu tầm tã, hai hàng chứa chan.
Cúi đầu thưa nói khoan khoan:
“Thiếp như phận liễu gặp cơn gió đoài.
Đã thương mới dám ngỏ lời,
Nhớ trong thanh sử hôm mai ghi lòng.
Chữ rằng tòng nhất nhi chung
90. Gái hiền thờ chỉ một chồng chẳng hai.
Cương thường đạo cả há chơi,
Một niềm hằng giữ, mấy lời đinh ninh.
Vả nay bóng đã xế mành,
Dám đâu còn lại gieo mình nữa nao.
Mặc ai ong bướm xôn xao,
Mười phần cũng chẳng chuyển dao một phần.
Hạ qua dám ước lại xuân,
Dễ hầu gà luộc mấy lần nữa sao?
Phận đành cho ả họ Tào,
100. Mong sân hoè được thanh tao là mừng.
Bây giờ sẩy bước lỡ chừng,
Tôi đây đã đội ơn chưng lòng chàng.
Đoái tương thân phận lỡ làng,
Dạy đường phương tiện lòng càng cám ơn.
Tóc tơ giải hết nguồn cơn,
Quyết liều chịu tốt thờn bơn một bề.
Vu qui núi chỉ non thề,
Tấc lòng đá tạc vàng ghi dám rời.
Ở đời kiên ngạnh với đời,
110. Kẻo e oanh yến những lời khen chê!
Chàng rằng: “Nàng vẫn chấp mê,
Chẳng hay lo trước ắt thì luỵ sau.
Hãy suy cho thấu cơ mầu,
Trong khi tuỵ hoán dễ hầu một ai.
Chữ rằng: ‘xuân bất tái lai’,
Một ngày là mấy sớm mai hỡi nàng!
Tới lui đôi lẽ cho tường,
Tính bề xử biến hơn đường kiên trinh.
Kết làm phu phụ chi tình,
120. Chẳng lo thuyền bách lênh đênh giữa nguồn.
Lòng xuân tưởng đến cũng buồn,
Chẳng nghe câu ví phương ngôn thường lề:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sồng sộc nó thì theo sau”.
Ngựa qua cửa sổ bao lâu,
Kiếp toan kiếm chốn bán sầu mua vui.
Hoa tàn nhị rữa thì thôi,
Bấy giờ ai kẻ còn lời tóc tơ.
Một mình giữ đống con thơ,
130. Dễ ai lo lắng sớm trưa với nàng.
Có khi biến, có khi thường,
Suy điều cùng chiếu cùng giường vầy vui.
Song song như đũa có đôi,
Ấm no cùng thoả, ngọt bùi cùng ăn.
Bằng khi vò võ nửa chăn,
Canh khuya trằn trọc băn khoăn vui gì.
Được chăng một tiếng tiết nghì,
Bắc đồng cân thử xem bề nào hơn.
Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,
140. Gan vàng dạ ngọc cơ hàn được đâu.
Như người phú các thư lâu,
Lòng son dạ sắt mình đâu dám bì!”
Nàng rằng: “Phận gái vụng về,
Đắn đo chút cũng thấu bề phải chăng.
Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,
Tạo đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.
Kể từ thủa mới thiên khai,
Nằm hang ở nội chưa ai biết gì.
Cũng còn có lễ lệ bì,
150. Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.
Phu thê phong hoá chi nguyên,
Sự vong như thể sự tồn kẻo quê.
Trời đâu phụ kẻ tiết nghì,
Lân kinh, Mao giản tạc ghi còn truyền.
Đời xưa mấy gái tiết hiền,
Chẳng nên giống nọ, thì nên giống này.
Mấy người tính nước, lòng mây,
Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương.
Sử xanh còn chép rõ ràng,
160. Lòng này đâu dám ra tuồng như xưa.
Kẻ chồng còn đó trơ trơ,
Cùng người khác đã đợi chờ tình chung.
Kẻ thời mới khuất mặt chồng,
Chưa xanh ngọn cỏ, cải dong, biến nghì.
Những loài ấy kể làm chi,
Rành rành bia miệng còn ghi đến rày.”
Chàng nghe lại nói lời này:
“Nàng tuy biết một chưa hay biết mười.
Đã là tai mắt ở đời,
170. Cứ mình, chớ bắt chước người vụ danh.
Ở trong thế sự vẫn thanh,
Hễ mà miễn được ích mình thời thôi.
Ví dù bắt chước như ai,
Nói màu trinh tiết, ở loài bôn ba.
Hán thời Lã hậu ai qua,
Sớm khuya cửa tía, vào ra nhà vàng.
Từ khi khuất mặt Hán hoàng,
Mà lòng tư túi với chàng Tự Cơ.
Ả Hồ dương nọ chẳng vừa,
180. Cớ gì mà lại toan thờ Tống công.
Kìa như Vũ hậu cũng nồng,
Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen.
Vua Đường thoắt mới xe tiên,
Rủ rèm trong đã có nguyền riêng tây.
Họ Trương đôi gã đẹp thay,
Hứa Tam tư lại chuyền tay mận đào.
Điêu Thuyền há chính chuyên nào,
Khi ra Lã Bố khi vào Đổng công.
Gặp ai thời nấy là chồng,
190. Cõi đời đâu đấy đều cùng cười chê.
Thử coi lấy đấy mà suy,
Người thiêng hơn vật nào nghì ở đâu.
Người thời đắc thế sang giàu,
Còn cầu thích ý còn cầu hưu danh.
Huống chi vật mọn quần sinh,
Giữ sao vẹn chữ tiết trinh mà bì.”
Gót đầu nàng lặng ngồi nghe,
Lâu lâu lại ngoảnh mặt đi thở dài.
Chàng nghĩ đàn đã êm tai.
200. Kể đường lợi hại nói chơi xa gần.
Rằng: “Thương nàng chửa yên thân,
Ở nơi đình chủ đông lân bây giờ.
Khó khăn nhà xác như vờ,
Nước sông gạo chợ, củi mua củi đồng.
Thịt chẳng có, cá thời không,
Chốn nằm chẳng có màn mùng che thân.
Gà về bới nát cỏ sân,
Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài.
Chó nằm hè gậm vỏ khoai,
210. Lợn ngồi dũi đất ngậm hơi gầy gò.
Vật nuôi còn chửa được no,
Của đâu thừa thãi để cho đến nàng.
Vả hay tiếc của giữ giàng,
Giang san một nắm lại càng dấu dung.
Vắt chày ra nước ròng ròng,
Miếng ăn đè cột chớ hòng mon men.
Hứng tay dưới, vắt tay trên,
Rán sành ra mỡ bon chen từng điều.
Treo cổ chó, buộc cổ mèo,
220. Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm.
Vặt đầu cá, vá đầu tôm,
Liệu thưng bữa sớm bữa hôm ít nhiều.
Hạt rơi hạt rụng bao nhiêu,
Chậu bồn úp lại, ai đào chẳng ra.
Thấy nàng lòng dạ xót xa,
Châu chan sầu tủi nghĩ hoà thương cho.
Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ nhân thiên táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
230. Bao nhiêu hổ thuỷ cũng tuôn nhập đoài.
Rày chen vượng tướng hào tài,
Đông phương tị ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay,
Quí nhân phù trợ tài này làm nên.
Lại xem tiền định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử vi đã giãi bày,
Tham lang thủ mệnh ắt rày vượng thay.
Vậy nên gặp cửa người đây,
240. Ngôi cao nhất phẩm, lộc dày thiên chung.
Toà ngang dãy dọc trùng trùng,
Tả lâu hoa tạ, hữu cung ngọc đường.
Của thời núi bạc non vàng,
Thóc Chu, lúa Hán kho tàng xiết đâu.
Thạch Sùng tắc lưỡi lắc đầu,
Nhân sinh rất mực hoà giàu hoà sang.
Thức gì thức chẳng sẵn sàng,
Giàu lòng ăn ở nghênh ngang một mình.
Vả nhà lắm kẻ hiền lành,
250. Tụng kinh chẳng nỡ sát sinh loài gì.
Khi vui khúc khích đầu hè,
Dẫu rằng: gia chủ chẳng hề dễ dui.
Ngẫm thân được chốn an vui,
Hiềm vì một chút số sui muộn màn.
Muốn cho vẹn nghĩa Tấn Tần,
Tìm phương phụ hậu ân cần những lo.
Đã từng xem quẻ bói rùa,
Còn toan bói hạc xem cho mới đành.
Nghe rằng Già pháp thần linh,
260. Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.
Trong nhà hắc hổ trấn phù,
Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng.
Tìm thấy Biển Thước lập phương,
Mã đề, qui bản, sà sàng, lộc nhung.
Nhân sâm, liên nhục, mật ong,
Pha cao hổ cốt ban long luyện hoàn.
Bổ trong ngũ nội đã an,
Vợ chồng lục vị, thập toàn uống chung.
Trong lòng còn nghĩ chưa xong,
270. Rắp tìm một kẻ thiên phòng chưa ai.
To đầu vú, cả giái tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngoạ tàm.
Biết đâu như thế mà tìm,
Nhờ tay nguyệt lão khéo đem kết nguyền.
Hôm qua máy mắt cho liền,
Nhện sa trước mặt báo tin ngoài thềm.
Bẻ chân gà mới so xem,
Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi.
Cho hay duyên kiếp bởi trời,
280. Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai,
Hôm nay mẹ nó đi chơi,
Phỏng chừng cũng đến có đôi ba ngày.
Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày nàng Oanh.
Khác loài tước bộ xà hành,
Lại xem phụ tưởng kiên trinh ai bì.
Muốn nên một chút nghĩa chi,
Chẳng hay nàng có khứng vì cùng chăng?
Đưa duyên nhờ gió gác Đằng,
290. Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
Sau toan Cách cựu Đỉnh tân,
Lại vầy, lại hợp cho nhuần sớm khuya.
Nọ là núi chỉ non thề,
Bất kỳ nên nghĩa tương kỳ mới hay.
Đem con sang ở bên này,
Phòng khi ấm lạnh đỡ thay cho mình.
Nơi ăn ở chốn ở chung chinh,
Chẳng lo khó nhọc cũng đành ấm no!”
Nàng nghe chàng nói nhỏ to,
300. Bây giờ mới kể sự Hồ Quí Ly:
“Làm người mang tính hồ nghi,
Thấy người cốt ngạnh chẳng vì chẳng yêu.
Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham lam chẳng khác Lý miêu đời Đường.
Bệ rồng gác phượng tấc gang,
Quen lòng khuyển mã toan đường dong thân.
Nỡ làm đố quốc hại dân,
Những phần ích kỷ nào phần ích ai.
Rồi ra động đất chuyển trời,
310. Bấy giờ có lẽ đứng ngồi làm thinh
Cá ao lệ nữa cháy thành,
Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.
Sao bằng đình chủ thiếp nay,
Ba gian oa xá tháng ngày tiêu dao.
Chẳng lo đuổi thỏ săn hươu,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Kình nghê vui thú kình nghê,
Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.
Xem loài bán thỏ buôn hùm,
320. Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò.
Thà ăn cáy ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.
Chớ quen bán chó mua dê,
Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng.
Sá chi chiều ấy như không,
Xác ve luống chịu tiếng trong cõi đời.
Gặp sao hay vậy, bao nài,
Cớ chi mà phải nghe ai bây giờ.
Chàng rằng: “Hãy được nương nhờ,
330. Bao giờ biến cải bấy giờ sẽ hay.
Chừa khi đến nỗi cháy mày,
Vội chi mà bỏ chốn này đi đâu.
Mặc khi báo ứng nhiệm mầu,
Quý Ly dù có về sau chẳng tuyền.
Cưỡi rồng ta đã băng nguyền,
Ứng diềm hùng huỷ vầy đoàn gái trai.
Chước nào ước được như lời,
Cũng đành muôn kiếp ngàn đời chẳng quên.”
Nàng rằng: “Lời dạy quá nên,
340. Song trong lòng nọ đá vàng dám nguôi.
Tuy rằng nương náu ở đời,
Dường ve gầy gục, dường giơi võ vàng.
Những lo trọn đạo thờ chồng,
Chồng sao thiếp vậy, kẻo càng xấu nhau.
Hầu mong nát ngọc trầm châu,
Lầu cao chẳng quản giếng sâu chẳng từ.
Bận vì một lũ con thơ,
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay.
Ví đeo tính nước lòng mây,
350. Chí còn chim Việt đỗ rày cành nam.
Mấy thu nước mắt chan cơm,
Lưng canh đĩa muối quải đơm thường lề.
Bởi phân làm thập nhị chi,
Trong kinh ghi dạy Thử bì còn gương.
Dám đâu lỗi đạo cương thường,
Nghĩa phu phụ nỡ dám đường bội vong.
Thấy câu phu xướng phụ tòng,
Ghi lời tiên thánh, dặn lòng đinh ninh.
Há còn kén cá chọn canh,
360. Cơm nem đã trải tay chanh đã từng.
Ơn chàng thương kẻ lỡ chừng,
Xin đừng dạy tiếng gió trăng nữa rày.”
Nghe lời chàng mới chau mày,
Nghĩ rằng tiết ngọc khó lay được nào.
Dỗ dành không biết chước sao,
Vẫn là hờ hững làm cao với mình.
Lại bày lời khác ướm tình,
Để xem lòng gái tiết trinh kia là;
“Rày nhân bướm được gần hoa,
370. Thuyền ngư ông tới doành mà chẳng nhưng.
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng.,
Bởi chưng gặp gỡ há rằng rắp rinh.
Bạch viên xưa kết Tôn sinh,
Chẳng vì dan díu, bỏ kinh tòng quyền.
Cầm lành dù chẳng nối huyền,
Nghe trong tình ý còn nên tiếng gì.
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ.,
Bảo sơn ai nỡ trở về tay không.”
Nghe lời chàng mới ngán xong,
380. Rằng sao quân tử ra lòng sài lang.
Qui dâm. ghi lại còn gương,
Trong kinh giới sắc sao chàng chẳng răn.
Tràng khanh tư ả Văn quân,
Tống sinh dùng gái chủ nhân chẳng vì...
Chàng sao chưa tát sông mê,
Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.
Ví lòng thiếp chẳng đá vàng,
Thời danh tiếng ấy nữa chàng về đâu?”
Chàng nghe thấy nói gật đầu,
390. Rằng: “Anh là kẻ bất cầu lợi danh.
Chớ tin bạch diện thư sinh,
Một văn luận thử. mà khinh giá này.
Xiết bao bướm lũ ong bầy,
Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường.
Dám nào thiết ngọc thâu hương,
Gìn trong danh tiết lánh đường phiền hoa.
Ví dù đem thói dâm tà,
Mày loan tóc phượng vào ra hiếm gì.
Tin chim thư cá gửi đi,
400. Cũng nhiều nơi rắp nơi vì riêng tây.
Đáp tai làm mặt chẳng hay,
Những lời hoa nguyệt xưa nay chưa hề.
Thấy nàng gái ở có nghì,
So xem khác giá nữ nhi thời này.
Ước nên chút nghĩa nước mây,
Chẳng mê gì sắc bởi say vì tình,
Chúa xuân dẫu có đành hanh,
Đến vườn cũng bẻ một cành cho cam.
Rồi ra đôi ngả bắc nam,
410. Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng.
Tình xuân ví chẳng đãi đằng,
Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài.
Dứt lời nàng mới giãi bày:
“Những điều mặt dạn mày dày khó coi.
Vườn xuân chàng sẵn có nơi,
Nguyệt hoa sao nỡ ép nài như ai.
Bây giờ rừng mặt vách tai,
Việc trong mới rắp kẻ ngoài đã hay.
Vầng trăng đã ngả về tây,
420. Để cho thiếp trở về rày với con.
Đường trường trở cách nước non,
Lũ hài tưởng nó hãy còn thơ ngây.
Nể lời quanh quất mãi đây,
Hoặc người về đó lời này tiếng kia.
Lại càng dại dáng nga mi,
Trăm năm danh tiết xướng tuỳ sao đang.
Ví xem tang bộc thói thường,
Xưa nay dạ sắt gan vàng như không.”
Biết rằng nàng chẳng chuyển lòng,
430. Bấy giờ chàng mới nói sòng hoạ may:
“Vốn người chính thất nhà này,
Trâm anh lịnh tộc xưa nay vẫn là.
Đàn bà ấy mới đàn bà,
Ngọt ngào có một, sai ngoa chưa từng.
Chìu chồng khuya sớm nỏ nang,
Phải chăng chẳng dám cạy răng một lời.
Ra vào bặt tiếng ngậm hơi,
Một mình săn sóc hôm mai nhọc nhằn.
Muốn cho được kẻ đỡ đần,
440. Quan quan bảo điểu muôn phần những mong.
Chẳng như kẻ bắc người đông,
Ghen tuông vì nỗi chồng chung nồng nàn.
Cát leo cù mộc rắp toan,
Xích thằng xui khéo tạo đoan một niềm.
Được nàng làm chị làm em,
Cùng ăn, cùng ở chẳng hiềm giận chi.
Nàng rằng: “Chàng dạy thế thì,
Phụ nhân đố kỵ xưa kia còn lời,
Phương ngôn câu ví để đời,
450. Nhường cơm nhường áo dễ ai nhường chồng?
Hiếm chi trong chốn non sông,
Thiên hương quốc sắc như bông hoa đèn.
Sá chi nửa cánh hoa tàn,
Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.
Thiên cao mà lại thính ti,
Trên đầu chẳng nghĩ còn thì có ai.
Cố lòng ép trúc nài mai,
Mượn dao thiếp quyết một bài cho xong.”
Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,
460. Bát trân chàng mấy giải lòng cho qua.
Rằng: “Nàng may lại tới nhà,
Tiễn đưa một tiệc gọi là cố tri.
Dẫu rằng dưa muối chớ nề,
Còn thừa nàng phải đưa về cho con.
Gọi là của khác nước non,
Đưa ra mọi thức miếng ngon mỹ hào.
Nem lân, chả phượng, yến sào,
Đàn con chưa dễ biết bao mùi này.”
Trình rằng: “Nhà thiếp xưa nay,
470. Ngày nào cũng phải như ngày thanh minh.
Vả trong cương tỉnh phong thanh,
Giang sơn một giải triều đình tri danh.
Mở mang trời cũng có mình,
Lẽ nào dám để thường tình cười chê.
Xin thôi cho thiếp trở về,
Ơn chàng non núi để thì đền sau.”
Rằng:“Bây giờ chửa thấy đâu,
Chẳng là rồi đến mai sau tích gì.
Cho hay rằng thói nữ nhi,
480. Biết chăng chỉ có một bề mà thôi.”
“Chàng sao khéo nói nên lời,
Hoa kia nguyệt nọ ra người phải ru?”
Bấy giờ trong dạ oán thù,
Lặng ngồi chàng mới nghĩ cho rạch ròi:
Như ta cứu nạn cho rồi,
Cũng nên ơn nặng muôn đời chớ sao.
Thế mà nhiều nỗi ước ao,
Thấy nào trả nghĩa thấy nào trả ân.
Khôn ngoan rất mực hồng quần,
490. Tại bình mà nói dối dần cũng xuôi.
Nghĩ thương thân phận lạc loài,
Chồng con nào có biết ai hay là.
Trông người ra cách phong hoa,
Thế mà những thói dâm tà thời không.
Hay buồn lý bắc lân đông,
Cho nơi cốt cách, mà lòng chẳng yêu.
Nay ta nói đã đến điều,
Chẳng lay tiết ngọc, chẳng xiêu lòng vàng.
Tính rằng khuyên dỗ lấy nàng,
500. Đỡ khi chim cá, tiện đường chung tư.
Nghĩ mình là kẻ văn thư,
Đầu đuôi nghĩ lại mà dơ dáng đời.
Thôi thì thôi cũng chịu thôi,
Kiếm đường chữa thẹn mấy lời cho qua:
“Thiềm cung bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Những lời ban tối nỉ non,
Thấy nàng có dạ sắt son thử tình.
Trăng hoa coi những làm thinh,
510. Có trời hẳn biết cho mình mà thôi.
Ví dù đây cũng như ai,
Ép tình cá nước phải nài nẫm chi.
Nàng hay nói quái nói kỳ,
Xưa nay âm thịnh dương suy thường tình.
Khen cho một dạ kiên trinh,
Dẫu rằng nghiêng nước nghiêng thành dễ đâu.
Xin đừng để tiếng cho nhau,
Cành hoa còn giữ được màu tại ta.”
Thưa rằng: “Thân phận đàn bà,
520. Trông ơn đã được khỏi qua nạn rồi.
Đức dày đành trả muôn đời,
Nghe lời thiếp phải liệu lời kêu ca.
Ơn dày trả nghĩa trăng hoa,
Lại là nghiệp chướng lại là trái duyên.
Xin chàng nghĩ lại chớ phiền,
Đừng hồ nghi nữa thiếp xin trở về.”