Thơ » Việt Nam » Hồ, thuộc Minh » Hồ Huyền Quy » Trinh thử
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/09/2014 18:54
Bấy giờ sắp sửa ra đi,
Vợ chàng lo lắng việc chi đã về.
Thấy chàng đưa tiễn đề huề,
530. Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng.
Thơ rằng:
“Non sông cách trở vững ba thu,
Giấc bướm mơ mồng núi vọng phu.
Khen kẻ rắp cùng gan phượng chạ,
Trách chàng toan tuốt ruột tằm khô.
Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,
Mấy lúc lòng vàng chỉ bóng ô.
Chăn gối lẻ loi đà mấy tối,
Mà lòng đã nỡ thế kia ru!”
540. Chuột bạch tức ý hoạ rằng:
“Danh tiết kia mà biết mấy thu,
Nghe quyên khắc khoải tiếng tư phu.
Mày ngài hoa ứ sầu khôn tả,
Má phấn châu rơi giọt chẳng khô.
Chút nghĩa đã nguyền vầng ngọc thỏ,
Tấm lòng phó mặc bóng kim ô.
Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,
Dạ sắt gan vàng dễ biết ru!”
Hoạ thi rồi tạ lấy lòng,
550. Giãi bày có cả vợ chồng cùng nghe:
“Gặp cơn sóng gió bất kỳ,
Nhờ ơn cứu vớt đêm khuya nặng tình.
Có nhà chị cũng như anh,
Người ta ai cũng lòng lành như ai.
Đè chừng bắt bóng dong dài,
Đá mòn đã vậy, miệng người thì sao?
Xưa nay danh giá thế nào,
Vì tôi một chút ra vào cho nên.
Phải chăng chị để em xin,
560. Bận lòng lo lắng giang sơn nỗi nhà.”
Bây giờ nàng đã bước ra,
Liệu điều chàng cũng giải hoà cho xuôi.
Nàng rằng: “Trong bấy nhiêu lời,
Rào sau đón trước cho ai đó mà.
Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa,
Tội chi mà thiết việc nhà người dưng.”
Tía tai đỏ mặt bừng bừng,
Vật mình nàng lại vang lừng nói ra;
“Cớ chi thiếp mới vắng nhà,
570. Đã lòng nhử nguyệt quyến hoa tơi bời.
Vừa lòng thích ý thì chơi,
Nhà này còn có xem ai ra gì,
Cửa nhà lo lắng sớm khuya,
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao.
No cơm thì rửng hồng mao,
Dục hà dục hĩ muốn sao thì làm.
Ai ngờ mặt sứa gan hầm,
Rắn toan gà luộc rượu tăm thoả lòng.
Khác nào như nhện đánh vòng,
580. Ếch kia trong giếng còn mong kẻ dò.
Đói thì đầu gối biết bò,
No cơm ấm cật còn lo lắng gì.
Chẳng thương đến nỗi thê nhi,
Tìm mồi khuya sớm đã đi đỡ chàng.
Trở về vừa đến đầu tường,
Thấy con muông đứng cửa hang nó rình.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
Lại e lũ khỉ buông dây (?),
590. Đến nhà nên nỗi nước này mà thương.”
Ghen tuông nhiều tiếng dở dương,
Chàng van như cốc, bày tường đầu đuôi.
“Canh khuya chưa nhắp còn ngồi,
Lạ vì vắng vẻ thức coi cửa nhà.
Bỗng nghe ngoài chốn tường hoa,
Tiếng con muông sủa từ xa lại gần.
Chút vì nàng mới lỡ chân,
Hoặc khi muôn một trở ngăn dường nào.
Song nga chưa biết làm sao,
600. Bồi hồi gan vượn xôn xao khúc tầm.
Thập thò hầu rắp ra thăm,
Thấy nàng Bạch thử đâm sầm vào hang.
Dữ lành hai lẽ chưa tường,
Giắt tay đã bảo có đường tìm ra,
Nói rằng trong nghĩa lân gia,
Phải con muông đuổi thế sa đường cùng.
Một mình thân gái long đong,
Dám xin cứu nạn ơn lòng chẳng quên.
Một làm phúc hai làm duyên,
610. Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì.
Vừa ngồi một chốc lại đi,
Há rằng có ý tứ gì cùng ai.
Cớ sao gieo nặng những lời,
Nghe ra chẳng chút vào tai cũng phiền!”
Nàng rằng sự đã quả nhiên,
Nào ai nói đặt cho nên đoạn trường,
Vợ con vừa bước ra đường.
Ở nhà thắc mắc lo lường đứng trông.
Phỏng rằng cậy dạ cậy lòng,
620. Thế thì dỗ gái về phòng làm chi?
Ngửa nghiêng như ốc biết gì,
Bặt ngay tăn hẳn dường dê mắc sừng.
Thôi thôi chẳng lọ nói năng,
Dấu voi ruộng rạ nghĩ rằng kín thay.
Hang hầm ai dám móc tay,
Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.
Ắt là toan rắp thế nào,
Không dưng ai có bỗng theo về nhà.
Ruồi kia một phút bay qua,
630. Biết là đực cái lọ là sự ai.
Ở trong chưa tỏ bằng ngoài,
Dễ mà ăn cáy bưng tai được nào.
Mê say chìm đắm má đào,
Như mèo thấy mỡ khát khao thật là.
Già chẳng thương, trẻ chẳng tha,
Khác nào như ếch thấy hoa thì vồ.
Thuồng luồng ở cạn có ru,
Mà toan bắt chước đứa ngu sờ sờ.
Chiếu chăn nào có hững hờ,
640. Mà như voi đói thì vơ dông dài.
Quen mùi bận khác ăn chơi,
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Bấy giờ khốn đổ cho nhau,
Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi.
Ví dù lầm phải vợ ai,
Giòng sông bè chuối mới hay cho đời.
Sáng tai họ, điếc tai cày,
Mà lòng lại tưởng đến người đào thơ.
Những mong lại có bao giờ,
650. Cho khuây khoả dạ kẻo mơ mẩn tình.
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây?
Nghĩ càng như tỉnh như say,
Mặt như đầu lợn nhìn thầy trơ trơ.
Nàng ngờ phải thuốc phải bùa,
Ve sầu xác rũ nó cho ăn quàng.
Cho nên thơ thẩn võ vàng,
Tìm lươn cho kíp cháo thang giã giùng.
Kẻo lòng tơ tưởng mơ mòng,
660. Khỏi hồn Thục đế, khỏi lòng Đỗ quyên
Bấy giờ tính nết đã quen,
Chắc rằng cua lỗ khó lên trên trời.
Nàng rằng bắt chạch đằng đuôi,
Kiện vô chứng cớ khôn đời đôi co.
Nguyên viết hữu, bị viết vô,
Minh đơn so với duyên do thế nào.
Nó thời nhất hướng tại đào,
Đi lên rừng biết đường nào truy đương.
Vô tang tích tịch tình tang,
670. Khôn làm lý đoán cho tường được đâu.
Rầm nhà tiếng hỏi lao xao,
Ai hay rằng sự dấu đầu hở đuôi.
Vẫn còn thèm thịt thèm xôi,
Ngày thường cơm tẻ thiếp nuôi lệ gì.
Có cãi rằng quí dịch thê,
Gái này chẳng dám nằn nì thương yêu.
Già rồi lận cận bỏ liều,
Sá chi vú sếch lưng eo sồ sề.
Chẳng ưa cà chín bầu già,
680. Tuổi đà dư lạp lịch đà quá niên.
Có trăng nên nỗi phụ đèn,
Chẳng ngon thể sốt, thời liền bến hơi.
Cười ra nước mắt hổ ngươi,
Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
Thế tình chuộng lạ tham thanh,
Thân tiên thân cú ra tình xấu chơi.
Cầu nôm đồng thủng lạ đời,
690. Kẻo còn nhọc xác mệt người xông pha.
Cắn đuôi tha trứng gần xa,
Cái thân tất tả như bà đánh ong.
Dạ tràng xe cát luống công,
Tò vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.
Ít lời chẳng muốn nói ra,
Những điều chàng ở ắt là chẳng quên.
Chèn nhau từng cạnh cho nên,
Trong bàn đã phỗng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia thực là tài,
700. Cửu vạn bát sách chờ hoài bán chi.
Âm dương bác cục được thì,
Cứ chi đứng hậu cứ chi lối lè.”
Chàng rằng: “Lời nói cũng kỳ,
Kể khoan kể nhặt thói quê thường tình.
Tiếng chua hơn nữa vắt chanh,
Toan đường tầm ngải lấn cành được sao?
Ta đây dễ nạt được nào,
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ roi.
Cũng toan níu náu cho rồi,
710. Càng ngày càng một tỏ coi những màu.
Cắm đầu mà chịu vuốt râu,
Đã căm như ngựa cầm tàu mấy phen.
Giống lừa ưa nặng đã quen,
Thôi đừng dức lác huyên thiên tít mù.”
Bấy giờ nàng lại tri hô,
Sắn quần sắn áo thập thò cửa hang.
Rằng: “Đà mang tiếng tào khang,
Những nhờ rễ mận rễ bàng cùng nhau.
Bây giờ nên nỗi cơ cầu,
720. Bà làm cho tỏ ra đầu ra đuôi.”
Miệng thời thở ngắn thở dài,
Tìm đường thăm lối kíp dời lân đông.
Cửa hang chuột bạch tới gần,
Đã phần sỉ vả lại phần mỉa mai.
Chuột bạch đỏ mặt tía tai,
Hỏi rằng: “Ai đấy mắng ai chốn này.
Con này chưa biết bà đây,
Lại toan tiếng nọ lời này đành hanh.”
Con mèo thủng thỉnh góc thành,
730. Đến xem tranh đấu ra tình làm sao.
Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi ra chiều lao đao.
Lạ đường chuột cái sa ao,
Thực là báo ứng trời nào có xa.
Bạch thời chạy được về nhà,
Bước qua cống gạo liền xa mình vào.