Trước khi băng vào năm Đinh Tỵ (1497)
Giữa triều đình chiếu chỉ truyền ngôi
Lựa trong mười bốn con trai
Hai mươi con gái chọn người lên thay

Thái tử Huy lên ngôi hoàng đế (1497)
Là một nguời thông tuệ anh minh
Việc quan cho chí việc binh
Thân hành khảo xét, tự mình duyệt phê (1498)

Vua ở ngôi tuổi kề băm bảy
Giữ phép công vẫn phải theo xưa
Thường đem Kinh dịch, Kinh thi
Mà răn thần tử giữ bề vua tôi

Năm Kỷ Mùi cho đòi tuyên sứ (1499)
Báo cho dân dự trữ gạo dư (1498)
Không nên xa xỉ dùng bừa
Để dành khi đói mất mùa mà ăn

Cũng năm đó cùng quan bộ Lại
Điện Kính Thiên vua ngự xướng danh
Truyền loa rao khắp kinh thành
Bảng vàng tiến sĩ một mình Lý Khiêm (1499)

Vua lại truyền thẩm tra quan lại
Tinh giảm dần bộ máy quốc gia
Tham, ngu, dốt, hoặc quá già
Thì cho trí sĩ thải ra loại này

Kể từ nay thân vương, dân chúng
Không cưới xin Man chủng Chiêm Thành
Bảo toàn giòng giống tinh anh
Để cho phong tục nước mình giữ nguyên

Cấp áo xiêm tuỳ theo chức tước
Khi vào chầu cho các quan nha
Thường triều mặc áo tơ gai
Trong ngày quốc kỵ cấm xài vải hoa

Vua chuẩn y lời tâu Lễ bộ (1503)
Cho đắp đê, đóng vĩ nâng bờ
Ven sông Tô Lịch để hờ
Phòng khi lụt hạn đóng cừ tưới tiêu

Quan hàn lâm Minh triều đi sứ (1499)
Là Lương Trừ mang ngự sắc sang
Phong làm vua nước An Nam
Lệnh cho lưỡng quốc nghị bàn hiếu thông

Kỳ thi hội nói chung có khác (1502)
Lễ xướng danh loa bắc truyền ra
Bảng vàng trước ở Đông Hoa
Nay nhà Thái học đem ra bấy giờ

"Quan Gia Đình trung thu ngoạn nguyệt"
Là bài thơ điểm khuyết của vua
Khuyên dân cày cấy đúng mùa
Một bài ngự chế dặn dò như sau:
"Tinh hoả hôn trung dạ
Bồng mang xuất bích đông
Kinh phuơng dương đại thuỷ
Vệ địa khủng hưng nhung
Tuần tĩnh vưu tâm lý
Suy chiêm mạn di đồng
"
Bài thơ nói tự đáy lòng
Lưu tâm lụt lội đề phòng về sau

Vua kinh hành ngự vào Thanh Hoá
Bái Sơn Lăng xa giá trở về
Mình rồng nghe đã hơi se
Lại ham nữ sắc có bề đáng lo