Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Hư Vô » Người tình hư vô (2011)
Dìu em ngang góc giáo đường
Tôi như ngả xuống mùi hương dại khờ
Chuông nhà thờ đổ bơ vơ
Rung cây thánh giá nghiêng bờ tháp cao.
Dìu nhau qua lối tơ đào
Còn nghe chiếc lá rơi vào bể dâu
Muốn ôm. Ngại áo em nhàu
Muốn hôn. Lại sợ em đau môi gần.
Hàng me xoã tóc phân vân
Mơ đêm thánh nữ chân trần kiêu sa
Tay em lạnh buốt lụa là
Lùa tôi ngang điệu thánh ca lạc vần.
Bàn tay mấy ngón tình nhân
Ngón nào đeo nhẫn định lần hứa hôn?
Nhẫn tôi liễu óng tơ tròn
Kề em nhan sắc còn thơm da người.
Giữ nhau ngọc biếc hương đời
Mở trang cựu ước về soi hình hài
Đá vàng đâu dễ tàn phai
Trăm năm chỉ một đêm này, thôi em…
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Hư Vô ngày 05/01/2012 06:43
Hư Vô, Đêm Mơ Thánh Nữ
Đá Vàng Tàn Phai...
Ngô Nguyên Nghiễm
Đi vào cõi thơ Hư Vô như một cuộc du hành chiêm nghiệm đầy tình cờ, giống như suốt bao nhiêu năm tháng qua, sự tò mò đã giúp tôi tìm đọc và phân tích tính thơ của các bằng hữu. Hôm đọc tạp bút của nhà văn Toại Khanh, về điện thư chủ đề Vàng Em Áo Hạ, kèm theo file video thơ Hư Vô, nhạc Phạm Quang Ngọc, nhận định của ông, khiến tôi thật sự tâm đắc về nét nhìn thoáng rộng và sâu sắc của hai người bạn văn nghệ chưa hề quen biết hay gặp mặt nhau một lần. Ngôn ngữ mà nhà văn Toại Khanh ghi nhận về thơ Hư Vô có một góc cạnh tinh khôi, mà ông cho là mới lạ… theo tinh thần Phật pháp. Quả nhiên, rải rác trong dòng thơ tình của nhà thơ Hư Vô, sự tinh khiết chìm đắm trong ngôn ngữ kỳ diệu một con tim, tạm gọi là kinh tình yêu… Lật lại từng trang sách ẩn hiện dòng thi ca đầy ảo hóa của nhà thơ, hầu như tâm thức anh đi thẳng vào một đề tài muôn thuở. Thời gian xa xưa trôi qua cuộc hóa thân trên ngôn từ, chiêu niệm cho một thời áo trắng tàn phai theo năm tháng. Anh ngược dòng nắm bắt lại những hình tượng mơ hồ còn đọng lại trong kỷ niệm: Hình ảnh tinh khôi của tình yêu muôn đời vĩnh cửu, trải dài trên bước đường phiêu lãng mà Hư Vô đang ngược chiều trở lại quá khứ. Ôm những vầng nhật nguyệt bay quanh những ngày tình, những ngày còn vang đầy tiếng guốc mộc, trên mê lộ phố xưa, vẫn còn nghe lạ lẫm mùi hương trải vô biên xuống tiệc đời…
Nét tinh khôi trong dòng thơ Hư Vô đánh dấu thành tựu cho một ngôn ngữ sáng hóa, làm giàu cho ngữ điệu mà thế giới thi ca lúc nào cũng cần thiết để tạo hình. Vì vậy, trong thơ những hình ảnh khơi dựng những ngọn đèn tàn canh thắp lên để buộc nhau nối khúc tử sinh đôi bờ, là ấn tượng sâu lắng đầy hình ảnh đạo vị, khiến Hư Vô có một thế giới thơ riêng biệt, giúp dòng thơ nhẹ nhàng trôi lướt giữa phù hư, sương khói. Nhưng tuyệt nhiên, những hình ảnh Phật pháp nếu có chỉ là lớp áo trong thơ anh, như tiếng nói giúp người nghe định vị được phương hướng người thơ đang hiện hữu. Thơ Hư Vô có một sức sống chan hòa của tâm và ý, lắng đọng như những hạt châu, chỉ rực rỡ trong môi trường đầy bóng sáng của thái dương. Chính vậy, đạo vị chỉ là phương thức đưa dòng thơ Hư Vô thêm một chút ảo mộng, mà huyền thoại tình yêu phải gắn chặt vào nỗi nhớ, như một đêm mơ Thánh Nữ bên góc giáo đường. Nỗi nhớ thanh thoát tượng hình, như một bóng ai nghiêng xuống hoàng hôn để cho góc phố nhà ai đứng đợi, chờ đợi mãi đến ngàn sau… Trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, nhà sư Hư Trúc lạc vào một mê cung băng tuyết giữa những buổi trăng vàng nghiêng soi bên góc cổ điện, mà giữa Tình Lang và Tình Nương chìm ngấm trong giấc ngủ mê tình, chưa hề hiển lộ dung nhan… Thơ tình của Hư Vô cũng đầy ảo giác, vẫn ôm ấp suốt một khoảng không – thời gian định mệnh một cách thủy chung, mà anh luôn bảo mật vì em còn nguyên huyền thoại / kéo dài tới bể dâu…
Hình ảnh vay mượn từ cái tử sinh, bể dâu, tàn canh, thăng trầm, bóng nguyệt, nhân duyên… hình như chỉ là lớp áo đầy vẻ đạo vị, nhưng chỉ làm phong phú thêm hướng sáng tạo của thơ. Hoàn toàn đó chỉ là ngôn từ, chưa phải chính pháp, như những hạt bèo trôi dạt trên mặt nước, mà hữu vi đi nữa pháp cũng phải lắng dịu dưới lòng sông. Huống hồ cái vô vi còn chờ người cởi bỏ mọi mê chấp, đi thẳng hay tiệm tiến. Tôi hiểu tâm hồn của nhà thơ luôn luôn muốn nắm bắt ảo diệu ngôn ngữ của thi ca, nên Hư Vô phải chuyển tải nhuần nhuyễn tâm thức trên đường đi của thơ anh, thêm những ngộ nhập bất chợt giữa hành trình. Hư Vô đảnh bẫy nhiều hình tượng, nên thơ anh hình như có một sự suy luận, mà luôn luôn cái kết đầy vẻ e ấp, thanh xuân, hờn dỗi, phân bua, đúng của dòng thơ tình: tôi buồn cái nỗi buồn tôi / sống là đã chết thật rồi, đó em! / tan tành bóng nguyệt, hình trăng / làm sao tôi dám trách phiền người dưng… Đại khái là như vậy, khác với thơ Nguyễn Tất Nhiên và Trịnh Bửu Hoài, cái mộc mạc so sánh và quyết đoán tư duy là cái nhập thể vững chãi trong thơ Hư Vô. Từ dấu son môi thời mới lớn, để nghìn trùng không đuổi kịp chuyến tàu, vì chỉ biết thẩn thơ chờ em ngang giấc chiêm bao lạ lùng. Thật đẹp não nùng, và chỉ có thơ là như vậy, như đuổi bắt ánh trăng, như vớt trong không khí hương hoa vừa bừng nở… Chính những cái ảo giữa hiện thực, giấc mộng trong tỉnh thức mong chờ, hoài thai cho một kiếp lặng lẽ, đẹp lãng bạt vô ngần trong bao nhiêu trần tục vây quanh…
Những lúc anh em văn nghệ ngồi quanh bàn tiệc tâm giao, phần đông mỗi người đều dư thừa trong sức sống, ý tưởng và sáng tạo một cách riêng tư kỳ bí. Hầu như mỗi nghệ sĩ đều có riêng cho mình một thế gian mê đắm riêng biệt, không thể trộn lẫn du nhập vào thế giới của nhau. Nhưng vẫn chấp nhận khung trời của nhau, chỉ cần hé mở một góc phù du, như vén rèm cho ánh tinh quang bình minh soi nhẹ, vì anh em tôn trọng vũ trụ của riêng nhau. Giống như hình ảnh lạc thân lạc chợ bơ vơ, nằm co giữa cõi vô thường… cũng chỉ là một vở kịch riêng dành cho chính mình ở một cõi phù du riêng biệt, không có một bóng dáng bằng hữu nào được phép bay nhảy lượn quanh, mặc tình cho người ôm thơ quằn quại tử sinh trong sân khấu tư riêng. Chính vậy, hướng thơ là của riêng anh, có thể giữa cõi phiêu linh hứng được một bát đầy tinh túy của thơ, thì chưa chắc người bên cạnh, hứng được giùm anh một chút cặn bã dư thừa. Rõ hơn, chỉ người thơ là chủ nhân tội nghiệp trong mảnh đất sáng tạo riêng tư, bất khả xâm phạm. Mỗi nhân cách đều thể hiện đằng đẵng từ não cân, tâm huyết và tài hoa riêng. Nhiều lúc gọi hồn Thánh Nữ, một Nguyễn Tất Nhiên thì thà như giọt mưa rớt trên tượng đá… còn Trịnh Bửu Hoài thì như giọt sương trên đọt nhãn sớm mai. Còn Hư Vô thì bước tới linh hồn để buồn no con mắt quấn quanh cuối đường. Cung cách biểu lộ tâm kinh của bằng hữu, khác nhau như những đốm sáng tung rải giữa rừng, bay tản mạn trong một không gian bốn phương tám hướng mà cách biệt ngàn trùng.
Thật ra, thế giới thơ của nhà thơ Hư Vô, là dòng thơ tình có vẻ mộc mạc và trong sáng đầy vẻ e ấp, chịu đựng. Nét hiền dịu, đầy hình ảnh tượng trưng, như tạo dựng một bức họa phẩm chứa đựng nhiều tình tiết vô chiêu, mới đó một đóa dã quỳ ai đánh rớt / nằm phơi lăn lóc lối tình nhân, thì hình như bóng dáng Thánh Nữ còn bay xa, không hiểu có một cái vẫy tay chào không, chỉ thấy thơ đi loang lổ trong bóng đêm dạ tửu: uống đêm chưa cạn hương mười sáu / mà buồn như đã tới đáy ly.
Có dạo, tôi ngồi cùng Nguyễn Tôn Nhan, Phạm Nhã Dự, Minh Nguyễn, Chu Ngạn Thư, Lưu Vân… chữ Thánh Nữ được Nhan dùng như một tôn xưng hoan hỉ với một người bạn nữ. Và hình như, Thánh Nữ được rộng rãi phổ biến trong những dịp trà dư tửu hậu, để nâng ly chan hòa đạo vị nhân sinh, tô điểm nét tuyệt diệu cho nhau trong những lúc cõi ta như đã mơ hồ / cõi em từ độ hư vô tượng hình. Chính vậy, với thơ tình của Hư Vô, cũng không ngoại lệ, với Thánh Nữ chân trần, làm thanh thoát và sương khói cho một dòng thơ, mà bên góc giáo đường của đêm mơ Thánh Nữ khiến tôi như ngã xuống mùi hương dại khờ. Thêm một điểm son, và đầy sáng hóa thi vị cho một hướng thơ đi… Hư Vô làm thơ gần 40 năm nay, dĩ nhiên tâm thức lắng đọng nhiều biến hóa kỳ diệu cho ngôn từ. Cái tuyệt vời của nghệ thuật là sáng tạo, lập thuyết và tài hoa. Không ai chối bỏ hay quyết đoán, thơ mới hay cũ chỉ là bước đo giá trị trong thi ca. Mọi trật tự trong vũ trụ hữu hình cũng phải đi từ cái không đến có, từ hỗn độn đến trật tự, từ sơ khai đến sáng hóa… Có những lúc, nhiều thuyết tân lập đang rặn mình hóa sinh, đó là điềm lành cho sự tuần hoàn, thành trụ hoại diệt. Sinh tử là lẽ thường hằng, hữu duyên năng tương ngộ, không duyên thì bất tương phùng, nên tất cả những gì hiện hữu đều là sự sinh hóa văn minh mà lẽ sống phải có. Thơ tình hóa sinh hằng bao nhiêu ngày tháng, từ cổ phong, cổ ngữ đến hình thức, tân lập, cũng là nét sinh hóa văn minh đó. Chính vậy, có nguồn cội mới có chi có nhánh, đến nay nhiều khi đọc lại các bài Đường thi của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… sự rung cảm vẫn chất ngất trong hồn.
Nhà thơ Hư Vô cũng có nét cổ phong trong dòng thơ riêng mình, nhưng đầy hình ảnh ẩn dụ, đưa thơ anh vừa dịu dàng đa cảm, vừa hóa thân vào một chân dung tượng hình đầy sáng tạo:
Bóng em hóa hạt bụi đào, ngây ngô
Này em, ôm sát hư vô
Chải vào hoang phế, hương bồ kết xưa…
Có thể khẳng định, Hư Vô rất thành công ở thơ vần, nhất là dòng 6 – 8, những hình ảnh tượng trưng ẩn dụ được nhà thơ dùng thật nhuần nhuyễn, tự nhiên như gió thổi trăng bay. Cái say mê cùng cực trên đường đi với thi ca, đã giúp Hư Vô hoàn chỉnh được hình dáng của mình trong một lớp dạ phục đơn sơ, đầy nét tinh quang tuyệt diệu…
Ngô Nguyên Nghiễm
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 6/2011