Ông Tô, thuở thiếu thời đơn độc,
Từ, Duyện xa trọ học, có công.
Đọc sách ở tại núi Đông,
Mười năm kinh điển lời thông nghĩa tường.
Ít khi xuống xóm làng nhộn nhạo,
Đỉnh mây trôi cam chịu đói lòng.
Cảnh nghèo cực khổ cố công,
Mỗi khi ăn, má ròng ròng lệ sa.
Đêm đốt củi để mà đọc chữ,
Áo bụi dơ lỗ chỗ mốc lan.
Sau là cố gắng chuyên cần,
Để mong báo đáp công ơn sinh thành.
Học được cái tinh anh nòng cốt,
Văn thu gồm cái tốt sử xưa.
Khách văn từ chốn quê mùa,
Khi về lại đã xe vua ngồi rồi.
Nơi nhà đông trả lời vua đúng,
Nơi đây những ông cống tập trung.
Đề còn ướt mực, chế xong,
Bảng ất khoa đã được trưng lên rồi.
Văn chương ngày trau dồi, càng tiến,
Lộc quan cũng ngăn cản bước chân.
Sớm vào chầu, theo các quan,
Chân đạp lên cái vết hằn thời xưa.
Trở về kinh, trương cờ thái thú,
Tại cung vua gió dữ nổi lên
Đã không bồi dưỡng người hiền,
Buồn vì khiển trách liên quan trại tù.
Thông thường rượu lu bù luôn chén,
Bè bạn hay bỏ hẳn cái này.
Hai năm buồn bực bệnh hoài,
Giận kia khiến đá cũng đòi lăn đi.
Túc Tông kể từ khi khôi phục,
Lại lấy điều mất, được, còn, không.
Phạm Việp con vẫn còn mong,
Lý Tư mơ mãi chó vàng đi săn.
Quan bí thư ý gần thông tốt,
Nước biển dâng tới gốc ngọn nông.
Sáng loáng thanh kiếm Phù dung,
Chẳng riêng trâu nước mới dùng để băm.
Khiến hậu bối lòng đâm khinh rẻ,
Làm tôi đây cứ phải nhớ hoài.
Rõ ràng bài hát thọ trai,
Bế tắc vạn cái bàn tay co về.
Ngưng để chờ người đi kế đó,
Đúng ra là phải cố động viên,
Chẳng cần treo giải bạc tiền,
Sao phải gây loạn cái đoàn chó ngao.
Ba chục năm bạn bầu gắn bó,
Nay lấy ai tôi tỏ nỗi niềm.
Huỳnh Dương cũng chẳng có tin,
Lưới tội thôi đã giăng dàn khơi khơi.
Than ôi, ông đi rồi, ngày mất,
Đầu hanh thông, cuối tất long đong
Trường An gạo đắt ngàn đồng,
Hơi thừa cho đến tận cùng thương đau.
Làm cách nào đương đầu cuộc chiến,
Buồm quay về sông Miện ngăn dòng.
Lại còn khó vượt sông Chương,
Luôn bị cụm cỏ ngăn đường dưới sông.