Tướng núi Tây, chiếu vua truyền xuống,
Lũng Hữu đem quân đóng thu này.
Ban tham mưu thấy buồn thay
Tiếng nhà lừng lẫy từ ngày xa xưa
Nhân đó bọn cải tà rời bỏ,
Ngựa nòi ngóng chủ cũ hí vang.
Gắng lo kế hoạch đàng hoàng,
Thản nhiên cứ cái con đường tiến ra.
Mui xe bóng chiều tà chiếu thẳng,
Gió trên cao lồng lộng cờ quân.
Sông Thiên Thuỷ lạnh, thông buồn,
Núi Tuyết Sơn sạch, cát cồn quanh co.
Hoà với giặc là do ơn cũ,
Nơi biên cương phòng giữ không rời.
Xưa nay đối với vùng ngoài
Giữ yên nhờ ở cái tài cầm quân.
Nơi Yên, Kế rần rần đàn lợn,
Vùng Chu, Tần chạy trốn cá kình.
Trung nguyên sao lắm bất bình,
Đảng giặc vẫn thấy tung hoành khắp nơi.
Điện Chiêu Dương tên rơi bay tới,
Đồn hành quân khèn gọi não nùng.
Cung nhân áo đỏ khóc ròng,
Con vua áo trắng đi rong cùng đường.
Các sao xấu làm rung ngôi chủ,
Chốn lăng xưa ủ rũ khí tà.
Chén vàng la liệt đưa ra,
Cờ quạt phất phới chẳng hề lại bay.
Nơi miếu đổ trời còn mưa tạt,
Cung đốt tàn lửa rát sáng trưng
Màn cửa một tối rách bung,
Qua đêm cột vững ngả nghiêng đổ kềnh.
Ba tháng trời quân tranh đoạt lấy,
Lũ giặc Hồ thế thấy còn gân.
Bị thương mà vẫn cầm quân,
Lòng hăng gắng chí, quyết tâm hoàn thành
Lời khen ngợi chờ minh chủ tỏ,
Đặc ân so hơn cả các quan.
Chừng nào quan lớn hồi loan,
Để cùng chung sức dẹp tan bọn càn
Chốn quê mùa ba ngàn kẻ sĩ,
Dùng thang mây chiếm bảy chục thành.
Buồn chẳng đạt Tô Tần danh,
Chỉ giống nước Lỗ chư sinh giúp đời.
Danh sách quan chỗ ngồi khiêm tốn,
Nhưng đường đời giữ trọn lòng ngay.
Đưa vai đỡ trong phút giây,
Công danh sớm có từ ngày trẻ trung.
Ý những muốn theo đường Lưu Biểu,
Mà hoá thành chán kiểu Nễ Hành.
Lần này xa cách thấu tình,
Cố ngăn giọt lệ lòng thành ghi sâu.
Nơi ấp vắng cáo hồ nhộn nhạo,
Chốn làng hoang hổ báo tranh nhau.
Nhân dân lâm cảnh khổ đau,
Chân tình ông lại nỡ nào làm ngơ.
Người chỉ huy đề ra luật mới,
Quân đi đầu đã tới kinh xưa.
Giữ biên lại vừa giúp vua,
Sau công danh hãy bỏ qua cho rồi.