Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Lưu vong làm quan (756-759)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 15/03/2015 22:37, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 21/04/2024 13:51
詔發西山將,
秋屯隴右兵。
淒涼餘部曲,
燀赫舊家聲。
雕鶚乘時去,
驊騮顧主鳴。
艱難須上策,
容易即前程。
斜日當軒蓋,
高風卷旆旌。
松悲天水冷,
沙亂雪山清。
和虜猶懷惠,
防邊不敢驚。
古來于異域,
鎮靜示專征。
燕薊奔封豕,
周秦觸駭鯨。
中原何慘黷,
餘孽尚縱橫。
箭入昭陽殿,
笳吟細柳營。
內人紅袖泣,
王子白衣行。
宸極祅星動,
園陵殺氣平。
空餘金碗出,
無復穗帷輕。
毀廟天飛雨,
焚宮火徹明。
罘罳朝共落,
棆桷夜同傾。
三月師逾整,
群胡勢就烹。
瘡痍親接戰,
勇決冠垂成。
妙譽期元宰,
殊恩且列卿。
幾時回節鉞,
戮力掃欃槍。
圭竇三千士,
雲梯七十城。
恥非齊說客,
只似魯諸生。
通籍微班忝,
周行獨坐榮。
隨肩趨漏刻,
短髮寄簪纓。
徑欲依劉表,
還疑厭禰衡。
漸衰那此別,
忍淚獨含情。
廢邑狐狸語,
空村虎豹爭。
人頻墜塗炭,
公豈忘精誠。
元帥調新律,
前軍壓舊京。
安邊仍扈從,
莫作後功名。
Chiếu phát Tây Sơn tướng,
Thu đồn Lũng Hữu binh.
Thê lương dư bộ khúc,
Xiển hách cựu gia thanh.
Điêu ngạc thừa thì khứ,
Hoa lưu cố chủ minh.
Gian nan tu thượng sách,
Dung dị tức tiền trình.
Tà nhật đương hiên cái,
Cao phong quyển bái tinh.
Tùng bi Thiên Thuỷ lãnh,
Sa loạn Tuyết Sơn thanh.
Hoà lỗ do hoài huệ,
Phòng biên bất cảm kinh.
Cổ lai vu dị vực,
Trấn tĩnh thị chuyên chinh.
Yên, Kế bôn phong thỉ,
Chu, Tần xúc hãi kình.
Trung nguyên hà thảm độc,
Dư nghiệt thượng tung hoành.
Tiễn nhập Chiêu Dương điện,
Già ngâm Tế Liễu dinh.
Nội nhân hồng tụ khấp,
Vương tử bạch y hành.
Thần cực yêu tinh động,
Viên lăng sát khí bình.
Không dư kim uyển xuất,
Vô phục tuệ duy khinh.
Huỷ miếu thiên phi vũ,
Phần cung hoả triệt minh.
Phù ti triều cộng lạc,
Luân giác dạ đồng khuynh.
Tam nguyệt sư du chỉnh,
Quần Hồ thế tựu phanh.
Sang di thân tiếp chiến,
Dũng quyết quán thuỳ thành.
Diệu dự kỳ nguyên tể,
Thù ân thả liệt khanh.
Kỷ thì hồi tiết việt,
Lục lực tảo sàm sanh.
Khuê đậu tam thiên sĩ,
Vân thê thất thập thành.
Sỉ phi Tề thuyết khách,
Chỉ tự Lỗ chư sinh.
Thông tịch vi ban thiểm,
Chu hành độc toạ vinh.
Tuỳ kiên xu lậu khắc,
Đoản phát ký trâm anh.
Kính dục y Lưu Biểu,
Hoàn nghi yếm Nễ Hành.
Tiệm suy na thử biệt,
Nhẫn lệ độc hàm tình.
Phế ấp hồ ly ngữ,
Không thôn hổ báo tranh.
Nhân tần truỵ đồ thán,
Công khởi vong tinh thành.
Nguyên suý điều tân luật,
Tiền quân áp cựu kinh.
An biên nhưng hỗ tụng,
Mạc tác hậu công danh.
Chiếu của vua ra lệnh ông tướng vùng Tây Sơn,
Mùa thu này phải mang quân ra đóng đồn ở Lũng Hữu.
Đội quân của ông thật đau buồn,
Nhưng tiếng tăm cũ của gia tộc ông còn lừng lẫy.
Chim điêu chim ngạc nhân đó mà bỏ đi,
Ngựa hoa lưu quay đầu nhìn chủ cũ mà hí.
Khó khăn là theo sách lược từ trên ban xuống,
Nhẹ nhàng là bước đi trước mắt.
Trời chiếu ngay bên lọng xe,
Gió trên cao cuốn cờ xí.
Thông buồn nơi Thiên Thuỷ lạnh lẽo,
Bụi tung nơi Tuyết Sơn trong lành.
Giảng hoà với giặc là do lòng nhớ ơn,
Giữ biên giới đâu có dám xúc động.
Từ xưa đến nay tới miền đất lạ,
Trấn giữ cho yên đó là quyền tuyệt đối của vị chỉ huy.
Vùng châu Yên, châu Kế lũ heo rừng bỏ chạy,
Vùng đất Tần thuộc nhà Chu xưa, cá kình kinh sợ vùng vẫy.
Vùng trung nguyên sao mà buồn chán làm vậy,
Tàn dư bọn giặc vẫn còn quấy nhiễu.
Tên bắn vào tới điện Chiêu Dương,
Tiếng khèn vang vọng nơi dinh Tế Liễu.
Các người hầu gái khóc tay áo đỏ thấm nước mắt,
Các con cháu nhà vua mặc áo trắng đi.
Sao xấu làm náo động sao bắc,
Nơi vườn lăng không khí chết chóc tràn lan.
Chỉ thấy chén vàng xuất hiện,
Mà không thấy đuôi màn cửa phất phới lại.
Nơi miếu đổ nát trời tuôn mưa bay,
Các nhà to bị đốt lửa sáng rực.
Rèm thêu nơi cung điện một chiều mà bay tung hết,
Cột lim trong một đêm cùng ngả nghiêng.
Ba tháng liền quân đội tới cứu vãn,
Bóng giặc Hồ thế vẫn còn mạnh.
Thương tật nhưng vẫn đích thân tác chiến,
Quyết một lòng dốc sức mà vượt lên đến thành công.
Lời khen ngợi thân thiết chờ đợi phát ra từ vị chủ tể,
Cái ân huệ đặc biệt khác với các quan.
Chừng nào thì cờ tiết với phủ việt sẽ trở về,
Để cùng chung sức quét sạch các sao chổi.
Ba ngàn kẻ sĩ chốn quê mùa,
Dùng thang mây chiếm được bảy mươi thành.
Thấy nhục không làm được như người nước Tề có sách dụ các nước,
Mà chỉ giống như một học trò nước Lỗ.
Theo danh sách các quan thì ông ở cấp bậc khiêm tốn thấp,
Nhưng về con đường chính thống ông một mình ngồi vững.
Trong giây lát có thể quyết định đưa lưng ra gánh vác,
Tóc ngắn được cài trâm, buộc giải.
Đường lối muốn theo cách của Lưu Biểu,
Cuối cùng lại bị nghi và ghét như Nễ Hành.
Dần dà sút kém từ lần chia tay này,
Cố kìm nước mắt mà nín giữ trong lòng.
Ấp tan hoang loài cáo cầy làm rộn,
Làng bỏ trống hổ báo tranh nhau.
Dân chúng cứ luôn luôn chịu cảnh khổ cực,
Lòng thương dân, ông há làm lơ sao.
Vị chỉ huy đưa ra cái luật mới,
Đoàn tiền trạm tới gần sát kinh đô cũ.
Giữ gìn biên giới cho yên mà cũng phải theo phò vua,
Chớ có để ý gì đến công danh sau này nữa.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 16/03/2015 22:37
Tướng núi Tây, chiếu vua truyền xuống,
Lũng Hữu đem quân đóng thu này.
Ban tham mưu thấy buồn thay
Tiếng nhà lừng lẫy từ ngày xa xưa
Nhân đó bọn cải tà rời bỏ,
Ngựa nòi ngóng chủ cũ hí vang.
Gắng lo kế hoạch đàng hoàng,
Thản nhiên cứ cái con đường tiến ra.
Mui xe bóng chiều tà chiếu thẳng,
Gió trên cao lồng lộng cờ quân.
Sông Thiên Thuỷ lạnh, thông buồn,
Núi Tuyết Sơn sạch, cát cồn quanh co.
Hoà với giặc là do ơn cũ,
Nơi biên cương phòng giữ không rời.
Xưa nay đối với vùng ngoài
Giữ yên nhờ ở cái tài cầm quân.
Nơi Yên, Kế rần rần đàn lợn,
Vùng Chu, Tần chạy trốn cá kình.
Trung nguyên sao lắm bất bình,
Đảng giặc vẫn thấy tung hoành khắp nơi.
Điện Chiêu Dương tên rơi bay tới,
Đồn hành quân khèn gọi não nùng.
Cung nhân áo đỏ khóc ròng,
Con vua áo trắng đi rong cùng đường.
Các sao xấu làm rung ngôi chủ,
Chốn lăng xưa ủ rũ khí tà.
Chén vàng la liệt đưa ra,
Cờ quạt phất phới chẳng hề lại bay.
Nơi miếu đổ trời còn mưa tạt,
Cung đốt tàn lửa rát sáng trưng
Màn cửa một tối rách bung,
Qua đêm cột vững ngả nghiêng đổ kềnh.
Ba tháng trời quân tranh đoạt lấy,
Lũ giặc Hồ thế thấy còn gân.
Bị thương mà vẫn cầm quân,
Lòng hăng gắng chí, quyết tâm hoàn thành
Lời khen ngợi chờ minh chủ tỏ,
Đặc ân so hơn cả các quan.
Chừng nào quan lớn hồi loan,
Để cùng chung sức dẹp tan bọn càn
Chốn quê mùa ba ngàn kẻ sĩ,
Dùng thang mây chiếm bảy chục thành.
Buồn chẳng đạt Tô Tần danh,
Chỉ giống nước Lỗ chư sinh giúp đời.
Danh sách quan chỗ ngồi khiêm tốn,
Nhưng đường đời giữ trọn lòng ngay.
Đưa vai đỡ trong phút giây,
Công danh sớm có từ ngày trẻ trung.
Ý những muốn theo đường Lưu Biểu,
Mà hoá thành chán kiểu Nễ Hành.
Lần này xa cách thấu tình,
Cố ngăn giọt lệ lòng thành ghi sâu.
Nơi ấp vắng cáo hồ nhộn nhạo,
Chốn làng hoang hổ báo tranh nhau.
Nhân dân lâm cảnh khổ đau,
Chân tình ông lại nỡ nào làm ngơ.
Người chỉ huy đề ra luật mới,
Quân đi đầu đã tới kinh xưa.
Giữ biên lại vừa giúp vua,
Sau công danh hãy bỏ qua cho rồi.