Bản dịch của Nhượng Tống

Danh được hão! Thực tài đâu có!
Đầu bạc đeo trâm mũ quan hầu
Xe trời gió chực, bụi chầu!
Đài Mây khuyên trước, can sau nhiều lời!
Tội không chết nhưng đời vẫn loạn
Ôm gối nằm đòi đoạn xót xa
Tháng ngày con én lại qua
Kiếp người thấm thoắt như là bóng câu
Con thuyền mảnh đến đâu hay đó
Dấu vua xưa, chúa cũ tìm chơi
Ba lần đất Sở im hơi
Chín phen lựu Thục nhạt phai lửa hồng
Hùm sói dữ! Rắn rồng ngang ngửa!
Nghiệp tan rồi! Danh nữa còn đâu!
Bơ phờ hạc múa trước lầu
Trên đàn khúc “quạ kêu sầu” buồn tênh
Mai đỉnh núi đành hanh gió đập
Trúc bờ sông tràn ngập nước lên
Vẫy đuôi cực nỗi ăn xin
Dạn dày phơi mặt chưa đền ơn sâu
Đem “thai vạ” chứa vào trong ruột
Giữ “chuôi dèm” dám buột ngoài môi
Làng thơ xưa thiếu chi người
Thương thân lưu lạc, khóc đời bơ vơ
Nào dám quản rượu thừa, cơm nguội
Miễn qua cơn bụng đói dạ sầu
Cười chê mặc họ lâu nhâu
Thằng nghèo có dám oán đâu ông trời
Hơn với kém rạch ròi thực khó
Sang với hèn bày rõ chẳng sai
Kìa xem quan tắt bao người
Phải rằng ai cũng có tài hơn ta
Chước hoà thân cho là hạ đẳng
Bậc trọng thần nói chẳng thiệt thân
Các quan đều bậc trung thần
Sao nhà vua phải phân vân bàng hoàng?
Nào những kẻ tượng vàng bia đá
Hãy gắng công phò tá hơn xưa
Cột rường chớ bỏ thờ ơ
Giáo gươm đem đúc cày bừa cho xong
Phong nên rộng, tướng dùng nên hẹp
Việc đừng phiền, lưới phép đừng mau
Tự nhiên rồng hiện, phượng chầu
Điềm lành ứng với đất giàu dân đông
Giúp đời kém tài ông họ Phó
Lánh đời đành như chú họ Nhan
Giang hồ những kẻ yên nhàn
Xưa nay thường để lòng tàn như tro

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]