Ôi! Công việc cứu quốc, không có gì cần kíp hơn là vun đắp nhân tài, mà vun đắp nhân tài thì có cách tổ chức ra đoàn học sinh là hay hơn cả. Nhưng chúng tôi gặp phải cảnh ngộ này, không có tài sức nào tổ chức được học đoàn nữa. Duy có để cho anh em học sinh bền lòng gắng chí, tự lo lấy cách tìm đường cầu học mà thôi.

Lúc bấy giờ có người chạy qua Bắc Kinh, như bọn Chung Hạo Sanh, Hồ Học Lãm. Có người tới Quảng Tây như Nguyễn Tiêu Đẩu, Nguyễn Siên, Huỳnh Trọng Mậu. Có người chạy sang Xiêm La, như bọn Hồ Vĩnh Long, Đặng Quốc Kiều. Cũng có người vẫn lưu lại Nhật, giả mạo làm người Tàu để cầu học, như đám Trần Trọng Khắc, Hoàng Đình Tuân. Chân trời lênh đênh, ai lo thân nấy. Kể về tinh thần, anh em ta vẫn là một nhóm ái quốc thanh niên, nhưng về hình thức thì bấy giờ họ là một lũ học sinh bơ vơ trôi nổi.

Lúc đó tôi làm thế nào?

Đối với cảnh ngộ chẳng may của những anh em học sinh chí thân chí ái, tôi chỉ đành vỗ ngực kêu trời, lấy một trận khóc để kết thúc vấn đề ấy thôi. Nhưng mà tấm thân 7 thước đã hứa hẹn với non sông, là thân tôi đây, không thể lấy gì che lấp trách nhiệm cho được. Đến nông nỗi này tôi không thể nào không chạy qua con đường bạo động. Vẫn biết bạo động với tự sát đều là việc làm của những kẻ kiến thức hẹp hòi, không biết lo xa, nhưng nếu sự thế buộc tự sát, thà rằng xoay ra bạo động mà chết còn hơn. Vì cứ bạo động may ra còn trông được có chỗ thành công trong muôn một. Huống gì tôi đã suy đi tính lại, lúc này bỏ sự bạo động ra không còn có việc gì đáng làm hơn nữa.

Muốn học cách Thân Bao Tự khất binh để cứu Sở nhưng chỗ nào là Tần Đình cho mình đứng khóc mà cầu viện binh? Muốn học cách Việt vương Câu Tiễn nhịn nhục báo thù Ngô, nhưng có nơi nào là Cối Kê để cho mình nương thân sắp đặt? Còn muốn lấy văn tự để cổ động quốc dân gọi là cho xong phận sự đời mình đối với nước non, nhưng khốn thay văn tự cũng không còn lựa chỗ đất nào để gieo rắc tuyên truyền nó được, mới thảm! Chẳng những thế mà thôi, cho đến những anh em đồng chí ở trong nước cũng đều có cái nguy sớm muộn bị tù tội, bị đày, bị chém nữa kia. Than ôi! Con thú đến lúc cùng đường túng thế, nếu không phấn đấu may ra còn có đường sống, nếu không thì tất phải chết.

Tháng Tư mùa hạ năm Kỷ Dậu (1909), đảng ta phải trải muôn ngàn cay đắng mới quyên góp được một số tiền nữa gởi ra, tôi đem trao hết cho một hiệu buôn Nhật để cậy họ lén mua quân giới cho mình. Vì chúng tôi muốn bạo động, thế nào cũng phải có ít nhiều quân giới. Quân giới mua xong rồi, do Đặng quân Tử Mẫn bí mật đem qua Hương Cảng. Lúc ấy là hạ tuần tháng 5 giữa lúc tôi cũng đang ở đó. Vừa nghe tin nước nhà đưa sang, nói rằng Hoàng Hoa Thám tướng quân đang giao chiến với quân Pháp gắp lắm. Chúng tôi thiết nghĩ việc cứu viện họ Hoàng là một việc nghĩa phải làm, không thể nào trì hoãn được. Bởi vậy chúng tôi nghĩ cách làm sao vận tải được khí giới về nước cho mau.

Muốn chở quân giới vào đất Trung Kỳ tất phải mượn đường đi tới Băng-Cốc., kinh đô nước Xiêm, tìm cách yết kiến nhà đương cuộc Xiêm cầu họ giúp đỡ cho mình. Hai quan đại thần lục quân và ngoại giao Xiêm quốc lúc ấy, hơi có ý muốn giúp đảng cách mạng ta, nhưng họ còn đang bàn tính với nhau chưa được nhất quyết.

Tôi lại nghĩ đảng cách mạng Trung Hoa thuở nay rất thạo nghề mật chở quân giới, cho nên tôi lật đật từ giã Xiêm kinh mà đi Nam Dương, yết kiến Chương Bình Lân. Chính tay họ Chương viết một bức thư, giới thiệu tôi đi tìm kiếm một tay làm đầu đảng cách mạng Trung Hoa để mưu với họ giúp sức cho mình. Sau khi bàn định việc này xong rồi, tôi đã tới một hãng tàu Trung Hoa, thương thuyết với họ về khoản tiền tổn phí chuyên chở. Nếu đừng có việc trở ngăn, thì cái ngày giờ chuyên chở quân giới của chúng tôi đã định xong rồi. Không ngờ đâu bụng mình tính một đằng mà rồi việc làm trái đi một ngả. Trung tuần tháng 2 năm Canh Tuất (1910), tôi ở Nam Dương trở về thì nghe tin nói Bảo Hộ ra tay công phá đảng ta dữ lắm. Người chủ não của đảng ta ở trong nước là ông Ngư Hải đã bị nạn, đến đỗi việc đảng vỡ lở tứ tung. Bao nhiêu quân giới còn giấu đút ở Hương Cảng, vì sự đình trễ lâu ngày, thành ra tai tiếng thấu tới nhà đương cuộc Anh ở Hương Cảng hay dược. Cả thảy hơn 10 hòm súng đạn đều bị chính phủ Anh tịch thâu hết; ông Cảnh Lâm lại vì tội phạm cấm mà bị hạ ngục!

Trời ơi! Tin hung báo đưa tới, không khác gì con dao đâm một mũi chí mạng vào trong cái kế bạo động của tôi. Nhân đó có câu thơ cảm khái như vầy:
Ưu thế kỷ hồ thương hải khấp.
Kinh nhân nhất chỉ ngọc sơn đồi.

Nghĩa là:
Lo nước bao phen sa huyết lệ,
Tin quê đưa tới luống kinh tâm...
Lại còn một câu nữa:
Khả vô mãnh hoả thiêu sâu khứ,
Thiên hựu cuồng phong tông hận tai

Nghĩa là:
Đã không ngọn lửa thiêu sầu rụi,
Lại có cơn giông thổi giận thêm.
Ấy là những câu tả rõ tình hình cảnh ngộ của chúng tôi lúc bấy giờ. Từ tháng 3 năm Canh Tuất (1910) trở đi, tôi bước vào thời kỳ hết sức thê lương. Tin tức nước nhà, có khi vắng bặt mấy tháng trời, tôi không tiếp được mảy may nào. Vì Bảo Hộ thẳng tay làm chính sách khám xét thư từ và tịch thâu tiền bạc trong nước gửi ra cho chúng tôi.

Hồi này người Pháp có tính cách làm oai để cho đảng nhân đang bôn đào bên ngoài phải sợ, cho nên chỉ để tiết lộ ra ngoài những tin hung báo rằng đảng nhân nọ kia bên trong đã bị chém giết mà thôi. Thành ra những tin tức đau lòng đứt ruột, không ngày nào không quấn quýt bên mình tôi. Tôi dời về tỉnh thành Quảng Châu, thế mà quan quyền Pháp lại bỏ tiền mua chuộc bọn trinh thám người Tàu để làm khó cho tôi. Đến đỗi tôi không dám lấy bút mực làm sinh kế nữạ. Sớm tối tôi chỉ nương dựa vào một bà nữ sĩ nghĩa hiệp trên 70 tuổi đầu, làm như bà Phiếu mẫu nuôi cơm cho tôi ăn. Than ôi! Bà chiếu cố tôi trong chỗ gió bụi lênh đênh, nuôi tôi không biết bao nhiêu bữa cơm mà nói, mà không hề nghĩ tới sự mai sau, trông mình đền đáp gì hết. Thật là Châu Mẫu Việt Thành, khiến cho tôi chết xuống đất cũng còn mang ơn ngậm vành kết cỏ vậy. Bà họ Châu, tên là Bách Linh.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]