丁未九月大水耽耽堤決

瓠子何煩臨漢皇,
禹功責任要賢良。
早知人事胼肢力,
須備天災水旱常。
盛夏何曾不霖潦,
初春猶未謹隄防。
至今聖主懮民切,
遂有羇臣策救荒。

 

Đinh Mùi cửu nguyệt thuỷ Đam Đam đê quyết

Hồ Tử hà phiền lâm Hán hoàng,
Vũ công trách nhậm yếu hiền lương.
Tảo tri nhân sự biền chi lực,
Tu bị thiên tai thuỷ hạn thường.
Thịnh hạ hà tằng bất lâm lạo,
Sơ xuân do vị cẩn đê phường (phòng).
Chí kim thánh chúa ưu dân thiết,
Toại hữu ky thần sách cứu hoang.

 

Dịch nghĩa

Sao phải làm phiền vua Hán đến xem sông Hồ Tử,
Trách nhiệm đắp đê trị thuỷ cốt ở kẻ hiền tài.
Nếu sớm biết việc người phải dùng sức đến chai tay,
Thì phải phòng bị thiên tai thường xảy ra hạn úng.
Giữa mùa hè oi bức đâu từng không mưa dầm nước lũ,
Thế sao còn chưa đề phòng cẩn thận từ đầu xuân?
Nay thánh hoàng hết sức lo lắng cho dân,
Nên có kẻ bề tôi chạy việc cứu đói.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Huệ Chi

Hồ Tử phiền gì đến Hán vương?
Đê điều giao phó bậc hiền lương.
Việc dân, sớm biết còn cay cực,
Thời tiết, nên lo lúc thất thường.
Nắng gắt lẽ đâu không lũ lụt,
Đầu xuân sao chẳng chịu tìm phương?
Ngày nay thánh chúa vì dân xót,
Đã cắt người chuyên việc cứu hoang.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Hồ Tử sao phiền đến Hán vương,
Đắp đê trị thuỷ cốt hiền lương.
Việc người sớm biết dùng nhiều sức,
Hạn úng thiên tai phải nghĩ thường.
Giữa hạ lẽ đâu không lũ lụt,
Đầu xuân cẩn thận phải tìm phương,
Ngày đêm thánh chúa vì dân xót,
Nên có bề tôi cứu đói thường.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Sao để vua buồn chuyện nước nôi?
Hộ đê đã phó bộ công rồi!
Lũ tràn đã biết luôn cơ cực,
Đê yếu cần lo sớm đắp bồi.
Giữa hạ nào hay trời hạn lũ,
Đầu xuân chẳng đốc việc trông coi?
Để giờ xót cảnh dân lành đói,
Vua phải chia từng bữa gói xôi!

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời