Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thuỷ kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

Nghiệp căn ý là:
Nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng;
Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền;
Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh;
Não loạn tâm thần, đều do ba độc.

Tội keo tham là:
Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ;
Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ.
Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy;
Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét;
Lụa là chất đống, nào có giúp ai.
Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều;
Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn.
Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai;
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí.
Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo;
Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.

Tội nóng giận là:
Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu;
Quắc mắt quát to, tiêu tan hoà khí.
Không riêng người tục, cả đến thầy tu;
Kinh, luận tranh giành, cùng nhau công kích.
Chê cả Sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha;
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy.
Buông lời hại vật, cất tiếng hại người;
Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm.
Bàn thiền tợ thánh, trước cảnh như ngu;
Dầu ở cửa không, chưa thành vô ngã.
Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây.
Những tội trên đây, đều do nghiệp giận.

Tội ngu si là:
Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm;
Chẳng hiểu tôn ti, không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay;
Mắng Phật chuốc ương, phun trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân;
Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp.
Những tội như thế, rất nặng rất sâu;
Đến lúc mạng chung, rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được thọ sanh;
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ;
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

(Lễ Tam Bảo một lạy)

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]