Bản dịch của Phạm Doanh

Nhữ Dương chính là con Nhượng Đế,
Mặt mày thật đúng vẻ thần thông.
Râu ria giống hệt Thái Tông,
Tựa đêm xuân lạnh ánh lồng tươi lên.
Ở vào đời Khai Nguyên trước đấy,
Ơn vua ban được thấy nhiều lần.
Ra vào thông báo chẳng cần,
Chầu vua khác hẳn các quan trong triều.
Gìn giữ, tuy được yêu rất mực,
Lại còn thêm cốt nhục tình thân.
Khỏi buổi chầu, lòng an nhàn,
Hay vào buổi sáng gió làn tuyết bay.
Bỗng nghĩ chuyện săn bày thú dữ,
Trong vườn vua lả tà bụi trong.
Cờ mao bay thẳng một hàng,
Vạn ngựa cất vó nghiêm trang bước dài.
Vời ông tới trổ tài bắn nhạn,
Tuân lệnh vua, ông ưỡn thân mình.
Từ đầu ngựa, tên bay nhanh,
Từng không vun vút, lân xanh lại về.
Biên giới đỏ, như cờ phất phới,
Vầng trăng trong quét dưới nhẹ sao.
Tuy người Hồ, hạ biết bao,
Mà vua chiếu lệ chẳng hào hứng chi.
Con mồi, ông mỗi khi bắn trúng,
Tự tay vua ban tặng bạc vàng.
Thư can săn, vẫn sẵn sàng,
Ghì ngựa lâu để mà dâng lên người.
Ngựa xe đã không vui ham lắm,
Vua đã hiền lại sẵn lòng nhân.
Làm việc chẳng nhận lương quan,
Dưới nước cá sẵn rong ăn đủ mà.
Chẳng phải vì vua già lẩm cẩm,
Đều do ông một tấm lòng trung.
Về già đặt rượu vui chung,
Loại khách Thân, Bạch vẫn thường tới lui.
Đạo lớn chẳng có thời rộng lượng,
Mong nhớ hoài cứ hướng cỏ tươi.
Gương chăm học còn sáng ngời,
Vẻ mặt nghĩa khí khiến người lệ rơi.
Sáng tác ý bày phơi rực rỡ,
Bản văn như thần ở bên trong.
Sông rộng thật khó ngược dòng,
Mồ xưa, cáo thỏ ở trong lâu rồi.
Quận Hán trung gần nơi kia đó,
Vẻ hào hoa hiện rõ tính trời.
Lấy gì xoa dịu hồn tôi,
Tại nơi bến vắng, cứ xuôi con thuyền.
Phong vị cũ êm đềm còn đó,
Từ thiếu niên ghi nhớ vào lòng.
Bạn cũ dễ bị tiêu vong,
Chua cay, đau khổ tăng cùng già nua.