Bản dịch của Phạm Doanh

Vẽ ngựa, từ đầu triều đại này,
Giang Đô Vương nhất, tài thật hay.
Ba chục năm, danh ông đã nổi,
Thừa Hoàng được thấy, người đời nay.
Vẽ con Chiếu Dạ Bạch, vua trước.
Mười ngày mưa sa bên thềm ngọc.
Trong cung có bàn mã não hồng,
Tiệp dư truyền người hầu gói bọc.
Được ban, Tướng quân nhảy nhót về,
Lụa nhẹ, tơ mỏng bay phất phơ.
Cửa quyền, thân thích được bức hoạ,
Mới hay sáng rực, tranh toát ra.
Ngựa vua Thái Tông: Quyền Mao Qua,
Gần đây họ Quách: Sư Tử Hoa.
Nay bức mới có hai ngựa đó,
Khiến cho kẻ biết, vẫn ngợi ca.
Đều là ngựa chiến, một chọi vạn,
Lụa nõn lung linh như mưa sa.
Còn lại bảy con: riêng một vẻ,
Như trong trời lạnh tuyết ào ào.
Vó sương rầm rập dưới cây cối,
Quan ngựa, người hầu túm tụm vào.
Chín ngựa hiên ngang, đáng yêu sao,
Tia mắt trong, khí lực thâm cao.
Ai là người khổ công sưu tập,
Trước Chi Độn, Vi Phúng theo sau.
Nhớ xưa vua dạo cung Tân Phong,
Cờ xí rập trời hướng phía đông.
Ba vạn ngựa phi bao hùng dũng,
Sánh với hình này, sức vóc cùng.
Từ ngày vật quí cúng thần sông,
Không còn bắn quái ở giữa dòng.
Anh chẳng thấy:
Trước đồi Kim Túc, bên thông bách,
Long Môi vắng bóng, chim kêu không!