☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Một số bài dịch khác cùng bài thơ
Một số bài dịch khác cùng dịch giả
Cao, Văn gặp lúc cuối đời Tuỳ,
Đã tuốt gươm tuân thủ ý trời.
Trăm họ được chăm lo ấm cúng,
Như Tam Hoàng của thuở xa xôi.
Vua thần kế vị sau vua thánh,
Văn hoá được dùng để cảm khai.
Ân đức rót đầy cho bách chúng.
Thấm nhuần xương cốt thứ dân thay.
Đầu sao Mai cưỡi đuôi sao Ky,
Gió bụi cửa Tô nổi nhất thì.
Quân giặc Hồ truy binh Hán giết,
Hàm Dương xác chết ngập đường đi.
Người tài trốn tránh Tuyên Hoàng cả,
Đàm tiếu phát sinh bởi chuyện này.
Giặc chiếm Hà Nam, Hà Bắc trọn,
Thì mầm chinh chiến vẫn dằng dai.
Hô hào lập các trấn tinh binh,
Tề, Sái, Triệu, Yên, Nguỵ rập rình.
Liên hợp bủa vây ngàn dặm tuyến,
Đất đai chiếm hữu lấy cho mình.
Cháu con phản, giặc lấy cùng nhau,
Trai gái đông, đoài lại kết giao.
Lúc khốn chúng liền tay củng cố,
Liên hoàn hợp tựa chuỷ cung cao.
Tự bày bàn luật pháp ung dung,
Văn tế vận hành giống thánh cung.
Đặt tượng ly đầu sừng trước cửa,
Vẽ rồng đuôi quấn quít trong phòng.
Công văn ấn triện thường thay đổi,
Tài vật được cho, gọi tứ đồng.
Hàng vạn tầm hào khô bất tận,
Tường thành ngàn trĩ cứ bao trong.
Họ thề truyền cháu con hèn kém,
Sự nghiệp, khi nào tuyệt tử tông.
Cũng lập chín đền thờ tổ tộc,
Bốn phương của cải tặng cao bồng.
Cứ như thế bảy chục năm trời,
Thẹn xuất mồ hôi, đỏ mặt mày.
Thì hẳn Hàn, Bành không sống lại,
Vệ, An cũng chết những bao đời.
Bọn đồ đảng cửa quan hung hiểm,
Nhung nhúc như đàn trẻ hám chơi.
Vua chỉ suốt ngày than với thở,
Việc bên ngoài phó thác cho ai?
Đồn điền lập đến vạn ngàn nơi,
Luôn sợ đê điều vỡ chẳng ngơi.
Thuế vội vàng thu theo lệnh thúc,
Đánh cao dùng tạo khí binh đầy.
Việc này hại chính sách lâu nay,
Nhưng thuận lợi cho trước mắt này.
Phẩm chất các quan cùng tạp nhạp,
Kỷ cương dần lỏng lẻo nguy tai.
Tộc Di Địch cứ càng thêm mạnh,
Xơ xác chúng dân, thấy mỗi ngày.
Chuyện thái bình còn xa lắc vậy,
Buồn vì phung phí quá tầm tay.
Trinh Nguyên niên hiệu dù tàn cuối,
Xa xỉ phong lưu vẫn cứ hoài.
Cùng cực gian nan rồi sáng lạn,
Đến Nguyên Hoà thưở ấy lên ngôi.
Nguyên Hoà vua thánh vừa thay đó,
Tột bực thiên hoàng minh vũ oai.
Cho lợp cỏ trên cung điện biếc,
Tấu chương trong trướng cứ dông dài.
Ngài dùng tướng trẻ cho quân đội,
Đoán mộng tìm cho được lược tài.
Sấm sét rền xua mây khói tản,
Hà Nam một trận dẹp yên ngay.
Năm đầu Trường Khánh ta đà thấy,
Phản tặc Triệu, Yên chạy dập dìu,
Dắt vợ dẩn con sang cửa bắc,
Tranh nhau dập trán lạy van nài.
Thế nên bô lão khuyên con cháu,
"Rằng được đầy hi vọng tốt tươi".
Vua kế mắc xương trong cổ họng,
Muốn mang vác nặng, sức không tày.
Tướng ngồi trướng, lính giỏi đâu ra,
Cá nuốt thuyền mà lọt lưới qua.
Xương lại phơi bờ sông Kế Thản,
Máu còn tuôn sóng nước Hô Đà.
Vua ra lệnh đánh dẹp mà thôi,
Không hỏi thăm tình thế phản hồi.
Nên chỉ một ngày năm trấn giặc,
Cao bay xa chạy biệt mù khơi.
Tóm thâu họ tựa bắc thang trời,
Chúng đoạt trấn phiên thoáng trở tay.
Đường núi Thái Hàng ngan ngát biếc,
Quanh co rậm rạp cỏ đầy gai.
Là chàng trai nhỏ Quan Tây thành,
Nguyền lóc thịt Hồ giặc nấu canh.
Những muốn bày mưu cao trói chúng,
Biết ai bày cách giúp tâu trình.
Bao la trời đất rạng tinh anh,
Nhật nguyệt chung soi sáng rõ rành.
Kêu gọi Võ, Văn cùng khởi nghiệp,
Hẳn là thông tận biển mông mênh.
Được phong ân trạch hãy đừng quên,
Chinh phạt Hỗ, Miêu đặng kiếm thêm.
Bảy chục hay dù trăm dặm đất,
Tranh giành nhau mãi nghĩ không nên.
Thường khi nhớ chuyện thế này đau,
Lại uống say cho đến tỉnh sầu.
Giấu lưỡi nín thinh, lòng cảm nhục,
Cửa rồng hiến sách, mượn ai tâu.
Bài thơ hoài cảm nặng đa mang,
Đốt gởi Giả Sinh chốn suối vàng.