為官

幸得孤身衣紫袍,
十年窗下萬間勞。
公侯不免人陰算,
忠直難逃友惡謠。
父母饑寒年不奉,
妻兒貧乏日常敲。
為官如此何為者,
解綬歸田一望高。

 

Vi quan

Hạnh đắc cô thân ý tử bào,
Thập niên song hạ vạn gian lao.
Công hầu bất miễn nhân âm toán,
Trung trực nan đào hữu ác dao.
Phụ mẫu cơ hàn niên bất phụng,
Thê nhi bần phạp nhật thường xao.
Vi quan như thử hà vi giả,
Giải thụ quy điền nhất vọng cao.

 

Dịch nghĩa

May được một thân khoác bào đỏ tía,
Nhưng trước đây từng trải qua mười năm vạn phần cay đắng.
Khi được tước công tước hầu rồi, thì chẳng tránh khỏi bị kẻ xấu ngấm ngầm tìm cách làm hại,
Tấm lòng trung trực khó trốn khỏi bạn bè ác độc rêu rao.
Cha mẹ đói rét, quanh năm không chăm sóc được,
Vợ con nghèo thiếu suốt ngày giục giã kêu gào.
Làm quan thế này thì làm để mà chi,
Còn có một lối rũ áo về vườn là hơn hết!


Bài thơ này chép trong Thiên gia thi tuyển của Nguyễn Đức Huy người xã An Nhân, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Dương Văn Vượng

Cẩm bào may được một thân thôi
Từng trải mười năm khốn khổ rồi
Tước lộc tránh sao người ám hại
Thẳng ngay càng lắm bạn chê bai
Vợ con nghèo thiếu thêm không nỡ
Cha mẹ cơ hàn thật khó coi
Quan thế quan chi, quần áo vướng
Về vườn một lối thấy thảnh thơi

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đồng Thành

May được một thân khoác cẩm bào,
Mười năm từng trải khổ làm sao!.
Công hầu sao tránh người làm hại,
Trung trực còn nhiều kẻ biếm rao.
Cha mẹ cơ hàn không giúp đỡ,,
Vợ con nghèo thiếu mãi kêu gào.
Làm quan như thế làm chi nhỉ?
Rũ áo về vườn không tốt sao?

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời