有感其一

將帥蒙恩澤,
兵戈有歲年。
至今勞聖主,
可以報皇天。
白骨新交戰,
雲臺舊拓邊。
乘槎斷消息,
無處覓張騫。

 

Hữu cảm kỳ 1

Tướng suý mông ân trạch,
Binh qua hữu tuế niên.
Chí kim lao thánh chủ,
Khả dĩ báo hoàng thiên.
Bạch cốt tân giao chiến,
Vân đài cựu thác biên.
Thừa tra đoạn tiêu tức,
Vô xứ mịch Trương Khiên.

 

Dịch nghĩa

Tướng tá chịu ơn huệ,
Chiến tranh có cả năm rồi.
Tới giờ nhà vua còn long đong,
Lấy gì mà báo đáp trời cao.
Xương trắng qua trận giao tranh mới,
Đài ghi công cũ lại được chép ngay bên.
Lên bè mất tin tức,
Không thấy ông Trương Khiên ở đâu.


Đỗ Phủ viết chùm bài này khoảng năm 764 sau khi loạn An Sử đã yên, nhưng giặc Thổ Phồn lại nổi lên quấy nhiễu biên giới phía tây bắc, thậm chí còn uy hiếp cả Trường An.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Tướng tá chịu ơn sâu,
Cả năm giặc chưa dẹp.
Tới nay vua lao đao,
Ơn vua sao báo kịp.
Trận tan xương trắng phơi,
Đài mây lại ghi chép.
Lên bè, vắng bặt tin.
Kiếm Trương Khiên cùng khắp.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Tướng tá đã nhận nhiều ơn huệ
Trận chiến qua niên tuế vài năm
Tới nay vua vẫn khó khăn
Ngài không khả dĩ báo hoàng thiên ơn
Xương trắng đang oán hờn trận mới
Trên đài mây chỉ nói trận xưa
Lên bè biệt tích tới giờ
Chẳng ai còn thấy ông già Trương Khiên.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời