Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Đinh Nho Hoàn » Mặc Ông sứ tập
Đăng bởi DNH vào 12/04/2017 11:16
Nhàn vọng Soa Y thập lý tần
Vĩnh Thuần tiền để lạc hồi thuần
Tư trung thiết lão nghi đề trụ
Cổ Lạt linh hương nại cát cân
Nguyệt quá Hoà Yên tiêu niếu niếu
Ngư hồi Hoàng Phạm thuỷ lân lân
Thành đầu nghiêu khởi Huyền Thiên miếu
Chung tự sương minh thụ tự xuân
Nhàn ngắm những vạt rau tần trên mặt hồ Soa Y mười dặm
Huyện Vĩnh Thuần thì phải làm sao trở lại niềm vui hồn thuần
Lim núi Tư Sơn nên dùng làm cột cái
Nước Cổ Lạt nấu rượu thì khăn được bền
Trăng qua trên vùng hồ Hoà Yên vẳng nghe như có tiếng sáo
Thuyền câu trở về trên hồ Hoàng Phạm mặt nước gợn sóng lăn tăn
Đầu thành nhô lên ngôi miếu Huyền Thiên
Tiếng chuông lảnh trong sương cây cối đang tự làm ra mùa xuân
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi DNH ngày 15/04/2017 15:12
Soa Y nước biếc phủ rau tần
Vui hưởng thuần phong huyện Vĩnh Thuần
Lim núi Tư Sơn cây cột trụ
Nước dòng Cổ Lạt rượu bền khăn
Hoà Yên sáo vút trăng loang toả
Hoàng Phạm thuyền câu sóng lướt tràn
Bóng miếu Huyền Thiên in đáy nước
Chuông ngân sương cỏ gọi mùa xuân
Gửi bởi DNH ngày 10/06/2017 21:03
Mặc trai Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1671-1715) quê xã Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Là con trai thứ 3 của Hoàng giáp Đinh Nho Công. Ông mồ côi mẹ từ lúc ba tuổi. Ông học giỏi, thông minh được cha kèm học. Sau về kinh thụ giáo với nhiều bậc danh sư. Năm 30 tuổi, ông đậu Đệ giáp tiến sĩ xuất thân tức là Hoàng giáp. Sau làm quan (hàn lâm viện, đốc học cao bình..v..v..). Đầu năm 1715 ông được nhà vua tin tưởng cử làm phó sứ giúp vua sang nhà Thanh mở lòng hoà hiếu. Ông lấy hiệu là Mặc Trai. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc ông sáng tác thơ Mặc Trai sứ tập gồm 93 bài. Thơ ông giàu tính nhân văn, tràn đầy lòng yêu quê hương đất nước. Tâm hồn ông luôn hoà quyện với thiên nhiên. Trong tất cả 93 bài thơ đi sứ của ông, bài nào tôi cũng ngưỡng mộ nhưng tâm đắc nhất vẫn là bài thơ đặc tả cảnh thiên nhiên huyền bí khi ông đi qua Vĩnh Thuần. Bài thơ đã được phiên âm:
QUÁ VĨNH THUẦN HUYỆNHai câu mở đề, tác giả muốn nói lên nỗi niềm của lòng mình trước phong cảnh thiên nhiên khi qua Vĩnh Thuần “Nhàn vọng soa y thập lý tần”. Phó giáo sư Ngô Đức Thọ đã dịch nghĩa (lúc nhàn rỗi, ngắm những mảnh ràu lẫn bên hồ Soa y dài mười dặm) cảnh “Vĩnh Thuần tiền để” đã làm cho lòng người được trở lại hưởng niềm vui tại chốn này. Đó là một cảnh mỹ mục như lời dịch thơ của tiến sĩ Đinh Nho Hồng “Soa y nước biếc phủ ràu tần – Vui hưởng thuần phong huyện Vĩnh Thuần”.
Nhàn vọng soa ý thập Lý Tần
Vĩnh Thuần tiền để lạc hồi Thuần
Tư trung thiết lão nghi đề trụ
Cổ lạc linh hương nại cát cân
Nguyệt quá hoà yên tiểu niếu niếu
Ngừ hồi Hoàng Phạm thuỷ lân lân
Thành đầu nghiêu khởi Huyền thiên miếu
Chung tự sương ninh thụ tự xuân
Tư trung thiết lão nghi đề trụNhà thơ đang nói tại núi Tư Sơn có thứ cây gỗ lim quý làm cột trụ vững chãi. Nơi đây có dòng suối Cổ Lạt lấy nước suối đó dùng nấu rượu rất ngon (rượu ngon thì khăn bền). Theo sự tích Đào Tiềm lấy khăn lọc rượu uống xong quấn lên đầu). Nên lấy nước suối Cổ Lạt nấu rượu thì khăn đào tiền được bền (Cổ Lạt linh hương nại cát cân).
Cổ lạt linh hương nại cát cân
Nguyệt quá hoà yên tiểu niếu niếuNhà thơ Đinh Nho Hoàn lại bình về cảnh tượng nơi đây. Đó là cảnh trăng và thuyền cùng lướt trên mặt hồ soa y, Hoàng Phạm và vẳng nghe như có tiếng sáo vút lên giữa không gian trầm mặc mênh mang. Cảnh thuyền câu dưới ánh trăng ngà trở về trên mặt hồ Hoàng Phạm trong làn gió nhẹ lăn tăn thật thơ mộng, lãng mạn vô cùng. Đứng trước cảnh tượng kỳ diệu đó, ai mà không đắm say, ngưỡng mộ. Tình yêu thiên nhiên dậy lên trong lòng thi sĩ mới vẽ nên được phong cảnh huyền mỹ đó.
Ngư hồi hoàng phạm thuỷ lân lân
Linh núi Tư Sơn cây cột trụThật là 1 cảnh thiên nhiên diệu kỳ sâu lắng. Mỗi khi đọc những câu thơ đó, ta thấy như mình thực sự được đóng ở bên những khuôn hồ ấy mà thưởng ngoạn cảnh trăng thanh gió mát, thuyền buồm thơ mộng, cảm thấy tâm hồn mình đầy thú vị như lòng tác giả vậy.
Nước dòng cổ Lạt rượu bền khăn
Hoà yên sáo vút trăng lan toả
Hoàng phạm thuyền câu sóng lướt tràn
Thành đầu nghiêu khởi Huyền thiên miếuKhi ngắm cảnh ở đây, tác giả nghe như có tiếng chuông ngân lên từ trong sương vọng tới gọi cỏ cây đâm chồi nẩy nụ để rồi tự làm nên mùa xuân mới.
Chung tự sương minh thụ tự xuânCảnh tượng ấy đã nêu bật được một ý tưởng rộng mở sâu xa, thể hiện lòng lạc quan tin tưởng của tác giả. Hình tượng tiếng chuông ngân gọi cỏ cây tự lập mùa xuân mới, nhà thơ Đinh Nho Hoàn muốn nói đến cái tự chủ trong tương lai, cái tiền đồ, cái triển vọng huy hoàng xám lạn của ngày mai. Một tâm hồn thơ đa cảm, sâu lắng của thi sĩ Hoàng Giáp được thể hiện rất rõ, rất thực. Tiến sĩ Đinh Nho Hồng đã dịch 2 câu kết như sau:
Bóng miếu huyền thiên in đáy nướcMột phong cảnh tuyệt mỹ. Nhà thơ mặc trai Hoàng giáp có một tầm nhìn cao siêu, một tâm hồn cảm hoá ông đã tả các hình ảnh bằng nhiều từ tượng hình, tượng thanh: “Tiêu niếu niếu” (vẳng có tiếng sáo), “Thuỷ lân lân” (mặt nước lăn tăn).
Chuông ngân sương cỏ gọi mùa xuân
Những tưởng thơ xưa đã lỗi thời
Nào ngờ phát triển mãi sinh sôi
Cha ông thuở trước gieo vần đẹp
Con cháu ngày nay dệt
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 16/04/2019 04:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 10/11/2019 14:23
Soa Y nhàn ngắm vạt rau tần,
Thuần hậu vui niềm huyện Vĩnh Thuần.
Lim núi Tư Sơn làm cột cái,
Nước hâm Cổ Lạt rượu bền khăn.
Hoà Yên trăng chiếu hồ nghe sáo,
Hoàng Phạm thuyền câu sóng lướt làn.
Ngôi miếu Huyền Thiên nhô thành cuối,
Sương cây chuông lảnh làm mùa xuân.