立春

春日春盤細生菜,
忽憶兩京梅發時。
盤出高門行白玉,
菜傳纖手送青絲。
巫峽寒江那對眼,
杜陵遠客不勝悲。
此身未知歸定處,
呼兒覓紙一題詩。

 

Lập xuân

Xuân nhật xuân bàn tế sinh thái,
Hốt ức lưỡng kinh mai phát thì.
Bàn xuất cao môn hành bạch ngọc,
Thái truyền tiêm thủ tống thanh ti.
Vu Giáp hàn giang na đối nhãn,
Đỗ Lăng viễn khách bất thăng bi.
Thử thân vị tri quy định xứ,
Hô nhi mịch chỉ nhất đề thi.

 

Dịch nghĩa

Ngày xuân, món ăn mùa xuân có rau sống thái nhỏ,
Chợt nhớ đến hai kinh giờ này hoa mai nở.
Đĩa từ nơi cửa cao thành hàng những ngọc trắng,
Rau truyền từ tay xinh xắn kéo dài những sợi tơ xanh.
Nơi Vu Giáp, sông lạnh nhìn chán con mắt,
Ngóng về Đỗ Lăng, người khách không kiềm được nỗi buồn.
Thân này chưa biết nơi ở nhất định,
Gọi con kiếm giấy để chép bài thơ.


(Năm 767)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Ngày xuân món nộm rau sống băm,
Chợt nhớ hai kinh hoa mai nở.
Ngọc trắng thành hàng, đĩa nhà cao,
Tơ xanh vấn víu, rau ngón nhỏ.
Sông lạnh Vu Giáp trước mắt trơ,
Khách xa Đỗ Lăng lòng sầu nhớ.
Gọi con kiếm giấy chép bài thơ:
Thân này chưa biết nơi nào trọ.

tửu tận tình do tại
14.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Ngày xuân ăn món rau thái nhỏ
Nhớ hai kinh mai nở lúc này
Nhà giàu đĩa ngọc trắng bày
Rau xanh thái sợi xinh tay đưa truyền
Nơi Vu Giáp mắt nhìn sông lạnh
Khách Đỗ Lăng lòng chạnh nỗi buồn
Chốn này chưa định ở luôn
Gọi con tìm giấy ghi buồn thành thơ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời