惠義寺送王少尹赴成都,得峰字

苒苒穀中寺,
娟娟林表峰。
闌幹上處遠,
結構坐來重。
騎馬行春徑,
衣冠起暮鐘。
雲門春寂寂,
此別惜相從。

 

Huệ Nghĩa tự tống Vương thiếu doãn phó Thành Đô, đắc phong tự

Nhiễm nhiễm cốc trung tự,
Quyên quyên lâm biểu phong.
Lan can thượng xứ viễn,
Kết cấu toạ lai trùng.
Kỵ mã hành xuân kính,
Y quan khởi mộ chung.
Vân môn xuân tịch tịch,
Thử biệt tích tương tòng.

 

Dịch nghĩa

Trang nghiêm thay chùa trong hang,
Lồng lộng là cảnh rừng núi.
Leo lên lan can, thấy nơi xa,
Ngồi xuống thì mái nhà lại tới.
Cưỡi ngựa đi trên con đường xanh tươi,
Mặc áo, đội mũ vào lúc chuông chiề đổ.
Nơi cửa mây (cửa chùa), mùa xuân buồn thảm,
Cuộc chia tay lần này có nỗi luyến tiếc tiếp theo.


(Năm 763)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Rờ rỡ chùa trong hang,
Lồng lộng cảnh rừng núi.
Leo lên hiên thấy xa,
Ngồi xuống mái lại tới.
Cưỡi ngựa, đường xuân qua,
Mũ áo, chuông chiều nổi.
Cửa mây xuân buồn thiu,
Chia tay tiếc gần gũi.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Chùa trong hang xanh xanh màu cỏ
Núi trong rừng dáng có xinh xinh
Tựa lan can ngó xa xăm
Hứng thơ lại tới ngồi cầm bút ghi
Trên đường xuân ngựa đi người cưỡi
Tiếng chuông ngân áo mũ chiều tà
Cửa mây lặng lẽ xuân qua
Lần này cách biệt hai ta cùng buồn.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời