Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Chiêu quốc hồn văn (Nguyễn Thượng Hiền): Bản dịch của Cử Tạ

Người nước Việt Nam là Nguyễn Thượng Hiền xin kính cẩn lấy mảnh lòng son và máu hận đầy trời, kêu gọi hồn nước Việt Nam mà bảo rằng:

Than ôi!

Nước lớn nước nhỏ tuy khác nhau, nhưng nước nào cũng có hồn, chỉ riêng nước ta là không thôi. Thật ra đâu phải rằng không có, nhưng khốn nỗi lòng người ngu si, quá đỗi say mê vì danh lợi, ưa thích điều nịnh hót, sợ sệt đường trung nghĩa nên trước cơ đất nước tan tành, đâu có biết xót, mà chỉ nghĩ sao cho vinh thân phì gia là được.

Hiện nay, nước thù đang bị thua trận, ấy tức là cơ hội cho ta khôi phục.

Họp đàn lại có thể gây dựng được bờ cõi;
Gắng sức lên có thể đánh tan được thù chung.
Cớ sao hôn hôn mê mê?
Sớm dua chiều nịnh.
Theo địch có hàng muôn chước,
Vì nghĩa sao không một người!
Thảm thương thay!
Cả nước không biết hổ là gì!
Chả trách nó coi như lợn nuôi trong chuồng, đánh cho như ngựa dưới xe.
Than ôi! Nước hãy còn kia!
Mà hồn đâu mất.
Ta nay lên cao, kêu gọi mấy lời:
Nào đất Sài Thành; nào miền Hà Nội;
Nào vùng Thanh, Nghệ; nào chốn Hương, Bình.
Há không ai người nghĩa sĩ, nghĩ thù ra tay cứu vớt!
Há không một người dân nào, vì nghĩa cả lên đường rong ruổi!
Để rửa nhục cho dòng giống;
Để tẩy xấu cho nước non.
Than ôi!
Hồn ở nơi đâu?
Sao chẳng về mau?
Chí giỏi tài cao, trở lại đường ngay.
Tóc ấy da ấy, chớ để làm tớ làm tôi;
Đầu óc kia, không nên vào luồn ra cúi.
Về đi, về đi!

Theo gương tiên tổ, như Lê Thái Tổ đuổi giặc Minh, như Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên.

Về đi! Về đi!

Xem gương láng giềng, như dân Trung Hoa dấy lên ở Vũ Xương, người Nhật Bản xưng hùng ở cõi khơi.

Nghìn người muôn người, dốc lòng nhau lại. Cùng gắng sức, cùng lập công, cùng bàn kế, đề cho người trên thế giới, ai ai cũng phải lác mắt nói: Kìa nước Việt Nam, nay đã vùng lên giành độc lập, không còn là nước tôi đòi của Pháp-Lan-Tây nữa.

Than ôi! Đồng bào!

Ta nguyện hồn thiêng của nước bốn nghìn năm sẽ nhờ hùng khí của tất cả quốc dân mà làm cho sống lại, không để bị mất về lũ kẻ lòng lang dạ sói với quân mặt thịt mày mo nữa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Tuyệt mệnh (Hoàng Trọng Mậu): Bản dịch của Cử Tạ

Yêu nước tội tình gì, chỉ có tinh thần là không chết;
Ra quân chưa thắng lợi, khá đem tâm sự gởi đời sau.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Danh sơn lương ngọc phú (Trần Quý Cáp): Bản dịch của Cử Tạ

Than ôi!
Người chẳng thấy! Hiện thời châu Á Tế Á ta:
Anh hùng mưu sự độc lập;
Chí sĩ toan việc báo cừu.
Thương vì cuộc biến;
Lo vì nhân loại.
Kìa phía Nam, nước Xiêm tự cường;
Nọ cõi Đông, nước Hàn tự chủ.
Nam Hải tiên sinh, cổ võ phong trào bên Trung Quốc;
Cao Sơn liệt sĩ, khóc than kêu gọi đất Phù Tang.
Xấu kia, người đều biết cả;
Hổ này, ta lẽ quên sao?...
Vui gì yến tiệc linh đình;
Tốt chi danh vọng luồn cúi!

Nước Việt ta từ thời lập quốc;
Ở một phương trời cõi Á Đông.
Từ Trần, Lê trở lên;
Tự Hồng Bàng trở xuống.
Nhân tâm thuần phác;
Sĩ khí quật cường.
Thành Lĩnh Biểu đuổi quân Tô Định;
Sông Phú Lương bắt tướng Mã Nhi.
Vỏ ngựa ruổi, Chiêm Thành lùi bước;
Ngọn gió đưa, Chân Lạp chia bờ.
Mạnh thay dòng giống nước ta;
Đâu có thua gì kẻ khác.
Tiếc chỉ sai lầm một lúc;
Mà gây hoạ để muôn đời.

Tục còn ưa thích văn chương;
Sĩ vẫn say mê khoa mục.
Ngày đêm điển tích miệt mài;
Năm tháng phú thơ cặm cụi.
Sách văn hay dở, cúi đầu theo miệng trường quan;
Lời lẽ nên chăng, nhắm mắt học thừa Trung Quốc.
Ồn ào tranh miếng lợi danh, toàn đồ kẻ cắp;
Bô bô lên giọng hào kiệt, cả lũ lưng khom.
Rõ ràng bọn túi cơm giá áo, lăn mình vào đợi chủ Tây sai;
Thật đúng phường mặt ngựa đầu trâu, đành dạ để xô hầm con đỏ.

Hành vi thế ấy!
Tâm địa nhường kia.
Binh làm sao mạnh?
Của làm sao giàu?
Tri tuệ sao mở mang?
Nhân tài sao dưỡng dục?

Than ôi! Đau đớn lẽ!
Nghĩ nhục tầy trời nay còn đó;
Nên có lời tỏ rõ cho hay.
Sự thế nhường nay;
Lòng người căm giận.
Ngày này ngày khác;
Thuế nọ thuế kia.
Xương thịt đẽo chẳng còn gì;
Máu mỡ hút còn chi nữa.
Nhân dân ngậm đắng nuốt hờn;
Quan lại co đầu rụt cổ.
Mũ kia buổi sớm ban cho;
Hốt nọ chiều hôm giựt lại.
Người mình xem trọng như thần;
Lũ nó coi khinh hơn vật.
Hối đã muộn rồi, mẹo cắn rún nghĩ làm sao kịp;
Thế đà như vậy, lửa cháy mày biết gỡ được chăng!

Cho nên phải đau lòng xót ruột;
Phải vẽ vời theo nghĩa quyên sinh.
Dưới hàng sĩ tử;
Trên đám công khanh.
Ném bút đứng dậy!
Liệng mũ vùng lên.
Chứng tham tàn, quan lại bỏ đi thôi!
Bệnh phù danh, sĩ dân đừng mắc nữa.
Hơi tàn gắng dậy, để chờ ngày cứu nước vớt dân;
Sống nhục vui chi, chẳng thà để phơi gan nát óc.

Há đầu để:
Tháng năm vui thú;
Nhục nhã quên đi.
Bút cùn một ngọn, vùi đầu chi mãi dưới đèn tàn;
Cuộc thế trăm năm, để thành kẻ say sống mê chết.

Than ôi!
Huyết khí đã có;
Gan ruột sao không.
Thẹn cùng trời đất;
Hổ với non sông.

Tôi nay:
Nóng lòng vì thế sự;
Mỏi mắt bởi thời gian.
Nghĩ non nước lòng đau tựa cắt;
Nhìn biến cuộc dạ rối như tương.
Khôn ngăn giọt lệ Trường Sa, lênh lang biển Sở;
Treo rồi dải mũ Thần Vũ, hiu hắt gió thu.
Mắt trông An Tử ở Thần sơn, mảnh buồm qua bến;
Lễ tiễn Kinh Kha trên Dịch thuỷ, một đi chẳng về.
Tiếng ca dài đương khi nức nở;
Ngọn bút hoà lệ nhỏ tran tran.
“Chí thành thông thánh” chẳng màng;
“Danh sơn lương ngọc” miễn bàn là hơn...


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Phan công Đình Phùng vãn từ (Nguyễn Thượng Hiền): Bản dịch của Cử Tạ

Tiếng kèn ai oán vẳng ngàn xa,
Mờ mịt trời mây dặm hải hà.
Gươm giáo tô màu cờ biển cũ;
Cân đại nặng gánh nước non nhà.
Vang danh Ngự sử nơi triều trước;
Xót cảnh tướng quân giọt lệ nhoà.
Ngày khác trung nguyên về một mối;
Công đầu giết giặc chẳng ai qua.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Chiêu Quân oán (Vương Tường): Bản dịch của Cử Tạ

Cành thu hiu hắt lá thu vàng,
Trên đỉnh non cao, đó rõ ràng.
Có một chim kìa hay đáo để,
Ở ăn tự lúc mớ ra dàng.
Ra dàng đã đủ cánh lông bay,
Thấy rõ hình dung quý giá thay.
Trên nóc lầu cao đá đổ xuống,
Chín từng mây thẳm đã tung bay.
Tung bay, nhưng khốn biết sao rầy,
Sự thế than ôi, nỗi nước này!
Nỗi nọ dường kia khôn tả xiết,
Gan sầu ruột héo, ngỏ ai hay!
Ai hay cho khúc đoạn trường này,
Cho nỗi quan hoài ở chốn đây!
Uống uống ăn ăn khôn đắp lại,
Những hờn những oán, những sầu cay!
Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng,
Biết đến bao giờ hận mới tan.
Én nọ tung bay xập xoè cánh,
Đường xa mấy mấy dặm quan san.
Quan san thăm thẳm nỗi lòng đau,
Biển rộng non cao chất tủi sầu.
Vòi vọi đường xa muôn dặm cách,
Mưa nắng sân Lai, xót dãi dầu!
Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?
Lấp đặng cho ai những bất bằng.
Những nhớ những thương tầy núi biển,
Tình thu chan chứa hận sầu vương!

Ảnh đại diện

Điếu Nguyễn Trung Trực (Huỳnh Mẫn Đạt): Bản dịch của Cử Tạ

Thắng bại chi bàn việc tướng quân,
Người chài trụ đá khúc gian truân.
Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất,
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.
Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa,
Đôi đường trọn chữ báo quân thân.
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi,
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: