Trang trong tổng số 25 trang (244 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Cảm tác (Nguyễn Anh Nông): trang Khúc quân hành giới thiệu

Nguồn:
http://ngoctanns.vnweblogs.com/post/4314/309177

Ảnh đại diện

Cảm tác (Nguyễn Anh Nông): Lê Tuấn Đạt dịch và trao đổi

Xin nhà thơ cho tôi tham gia dịch thử sang tiếng Anh bài thơ này với nhé:
A SUDDEN TOUCH OF FEEINGS
When alive, the two young men used to be foes
Who tried to beat each other black and blue
Now, with both graves covered with grass  
They share sweet incense smoke, as friends do   
Xin diển nôm

Khi còn sống, hai chàng là thù nghịch
Cố đánh nhau cho bầm dập tơi bời
Về với đất, đôi nấm mồ xanh cỏ
Lại chia nhau nhang khói bạn bè thôi.              

Bài thơ của ông Nguyễn Anh Nông súc tích và thần diệu quá, tiếng Anh lại là thứ tiếng đa vần (polysyllable) khó có thể lột tả được hết, dù tôi đã cố găng giữ vần điệu trong bản dịch thử này (ba chữ cuói các câu foes, blue, do cùng một vần). Xin cảm ơn nhà thơ và xin bạn đọc đùng trách cho câu múa rìu qua mắt thợ
Viết bởi lê tuấn đạt 30 Jun 2011, 04:40
http://kimdieuhuong.vnweb...m/post/1117/28973#1436165

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): "GỬI BILL GATES & TRỜI XANH" MỘT THÔNG ĐIỆP VĂN HOÁ

“GỬI BILL GATE VÀ TRỜI XANH”
MỘT THÔNG ĐIỆP VĂN HÓA THỜI KỸ TRỊ.

Không có những thi ảnh lộng lẫy, những ẩn dụ thanh tao hay những phép tu từ cầu kỳ, tinh xảo. “Gửi Bin-Ghết và trời xanh” là lời tự sự của một chàng thi sĩ nông dân, đại diện cho nền văn hóa nông canh phương đông, với Binll Gate, chàng  hiệp sĩ IT (Information Techlonogi) hiển hách, đại diện cho nền văn minh kỹ trị tây phương. Xuất phát từ ý hướng này, quả nhiên Nguyễn Anh Nông đã chọn được cái sườn tự sự - trữ tình khá vững trãi cho trường ca của mình.
Bin Ghết- đó là theo cách gọi thân thiện của người nông dân quê tôi.  
Bin Ghết- chứ không phải Biu-ghết hay Biu-ghết-tơ (Bill Ghate)
Lời đề từ như ngầm giao ước với chủ thể tiếp nhận rằng: các vị đừng tầm cầu ở đây những biểu tượng, huyền hoặc, cũng sẽ không có những thượng tầng ý tưởng to tát, cao siêu, không có những phép tu từ cầu kỳ , tinh xảo…mà giản dị chỉ là lời tự sự của một bác nông thuần phác. Trong một cuộc tự sự văn hóa, nhà thơ-nông canh có những gì để nói, phải chăng là chuyện “con cá –lá rau”, về cái không gian thân thiện ngập tràn cỏ cây hoa lá? Chính vì đã chọn được giọng điệu đậm chất khẩu ngữ Pha-mờ (famer), trên nền trữ tình dân gian đặc trưng châu thổ bắc bộ, nên tác giả cứ thỏa sức thung dung, nhẩn nha, túc tắc, như một bác nông dân khề khà nhả khói thuốc lào bên bát nước chè xanh kể lại chuyện trong làng, ngoài xóm. Ở đây, nhà thơ cũng nhẩn nha dạo chơi qua cánh đồng thi ca, khi  “bắt bướm” lúc “hái hoa”. Tiện đâu bàn đó, chẳng nệ gì đến cấu tứ, khúc thức, đoạn, chương. Tuy nhiên, có lẽ dưới ánh mặt trời này, chẳng có cái gì tồn tại, mà không hàm chứa chút nghĩa lý. Giản dị có sự hiền minh của giản dị. Khát vọng về cái đẹp, cái thiện và hòa bình thì vị học giả cũng bình đẳng với kẻ không biết chữ.  Dường như chính bản thân sự rườm rà về ý tứ, luộm thuộm về câu từ kia mới tạo nên sức mạnh của thông điệp..
Bin Ghết)  
Cậu khoẻ không?  
Tớ với cậu chưa gặp nhau  
Nhưng tớ biết cậu  
 Rõ ràng đó không phải thứ ngôn ngữ giao tế, phát ra từ những bộ Comple  hồ cứng, nức mùi băng phiến. Cũng không phải thứ ngôn ngữ trưởng giả đại ngôn, cầu kỳ và thiếu vắng sự thành thật. Đó chính là ngôn ngữ của đời sống, thứ ngôn ngữ chân mộc thơm mùi hoa lá cỏ cây và ấm áp tình bằng hữu.  Với thứ ngôn ngữ này nhà thơ đã vượt qua mọi khác biệt,  tước bỏ mọi giao đãi tầm thường,  để ngài tỷ phú và bác nông dân tương giao    như  chỗ bạn bè thanh khí. Họ đã cởi lòng để bộc bạch tất cả mọi nỗi niềm:
Tớ khâm phục cách cậu nói và làm việc  
Tớ ngưỡng mộ cách cậu sử dụng tiền  
và  sự kiêu hãnh đến hồn nhiên cũng đậm chất …nông dân.

Tất nhiên cậu học tớ cách làm thơ, thì cũng còn lâu  
Nếu thơ tớ mà đổi ra đô la, vàng, bạc, kim cương  
Thì trái đất nặng thêm nhiều trọng lực  
Sau màn chào hỏi bộc trực và hồn nhiên, là câu chuyện lan man “từ trong nhà ra ngoài ngõ” đậm chất khẩu ngữ, với đặc trưng phi tuyến tính, phi khúc triết, phởn phơ, tự tại, nghĩ sao nói vậy, tiện đâu bàn đấy..Song quan trọng là họ đã nói lên được những điều cần nói.
Cách nói có thể mộc mạc, thô sơ, song ngẫm ra, mới thấy nhìn đâu cũng thấy  những vấn đề mang hơi thở thời đại. Là kí ức  lịch sử, với những vết thương vừa liền miệng.
Nỗi đau chồng nỗi đau  
Căm giận và thù hận   
Ôi, cái ngày hôm qua?  
Là những dự cảm xót xa về chiến tranh và hòa bình, với hình ảnh  Chim Câu bị vây khốn trong nanh vuốt của con mèo mặt Hổ, khi lại lâm nguy giữa ngùn ngụt khói giếng dầu.
mặt trời sặc sụa nhỏ những giọt nước mắt- a -xít xuống các châu lục.  
Chim câu đang vừa bay vừa khóc...     
Là những tự vấn bản thể mà phàm đã là con người mấy ai không có lúc tự hỏi mình:
Tớ là ai? Đến tớ cũng... phân vân?  
Một làn mây hờ hững, phiêu bồng?  
Một làn gió vô tư và ngỗ nghịch?  
Một bông cúc xanh?  
Một đoá hoa hồng?  
Trong vô thức sáng tạo, nhà thơ đã bộc lộ căn cước văn hóa của dân tộc, qua cái phân vân bản thể ấy, đã hé lộ cội nguồn văn hóa Việt, nơi tam giáo đồng nguyên,  nơi Phật đà quan niệm, sự hiện hữu của mỗi cá nhân chẳng qua là sự kết tập trùng trùng duyên khởi của dòng sinh lực vô cùng, đang chuyển lưu trong vũ trụ.  “Ta là ai?” đó không phải là một câu hỏi bi quan,  mà một tự vấn xao xuyến nỗi niềm bản thể. Tự vấn để tin mến yêu cuộc sống này hơn.
Trịnh Công Sơn cũng từng tự hỏi:
“Ta là ai, mà yêu quá cuộc đời này?”.
Thì đây nhà thơ đã hồn nhiên bộc bạch:
Bin Ghết này, mình nói thật:  
Chúng - mình - là  -  hạt - cát - biết - yêu đương.
Vâng! ẩn dụ hạt cát –con người tuy không mới. Tố Hữu ví “mỗi chúng ta như những hạt cát lộng lẫy của Đảng”, Trịnh Công Sơn cũng so sánh phận người với Cát bụi rong chơi, ở đây tác giả đã đóng góp một ý mới: Hạt cát biết yêu đương. Hay quá,  một hạt cát biết yêu thương có thể sẽ dẫn đến những vị hiền giả, còn một hạt cát biết yêu đương thì khiến cuộc sống nảy lộc mãi không thôi.Màn tự vấn vân còn tiếp tục đâu đó, xem lẫn với cảm thức thiên nhiên. Như một màn trữ tình ngoại đề đầy hứng khởi. Tác giả, mặc sức chồng chất vào thi phẩm hằng hà những: Kiến, Cóc, Muỗi, Còng Gió, Cỏ, Hoa… Cứ thung thăng, lãng đãng như gió thổi mây bay như thế, nhưng ngẫm ra không phải không có những ngẫu luận chạm đến tầm « tạo vật huyền đồng » của Lão-Trang.
Bọc hổ phách tái tạo sự hồi sinh kỳ diệu chỉ có trời đất biết  
Mây trắng thủơ hồng hoang hội tụ để hoài thai?  
Biết đâu tao với mi cùng chung nguồn gốc?  
Cùng sinh ra từ vụ nổ Big- bang?  
Ở đây, rõ ràng nhà thơ đã rất có ý thức để thi ca biểu hiện sự hòa nhập trọn vẹn trong mối tương giao giữa con người và vạn vật.
Chọn hình thức, độc thoại thô mộc dạng này, quả nhiên tác giả đã biết lượng sức. Bởi nếu không. đương nhiên, trong một cuộc đối thoại văn hóa, nó sẽ đòi hỏi một vốn văn  hóa-lịch sử-triêt học khá uyên thâm, mới có thể đáp ứng . Tuy nhiên, « thái quá thường bất cập », việc lạm dụng khẩu ngữ và phát triển quá nhiều mà « trữ tình ngoại đề » cùng với các ngẫu luận đầy « ngẫu hứng » kiểu như  khúc IV, khúc tự bạch chất phác của  anh chàng tiểu nông  nhẽ  ra với :
Bin Ghết ơi!  
Tớ  
thân cò  
phận vạc...  
Bước thấp bước cao  
Bước hư bước thực .
………………………..
...đến.. Vụng và vụng về tay ngoắc vào tay  
Lấn ba lấn bấn trăm mối tơ vò .
Trong khoảng 20 câu thơ liên tuc, như thế đã khá đủ. Nếu không chuyển ý, ít ra cũng phải thay đổi cách tạo hình. Nhưng không, liền tiếp vẫn là màn “trữ tình ngoại đề”,  xối xả như “đại liên bắn phá tung thâm” với khoảng gần trăm câu dạng:
……………………………………………
Cây phượng lên đồng, cây mai đỏm dáng?  
Bảng la bảng lảng sương chiều giăng giăng  
Thung tha thung thăng mấy chàng ế vợ  
Tở ma tở mở mai mối được mùa  
Tua la tua lua thợ kèn thợ trống  
Đi bộ đánh võng mấy chàng thất tình  
Lình xà lình xình dây cà dây muống .
………………………………………
Mặc dù có thể vẫn có sự nhất quán thi pháp, ở đây là sự tiếp biến thi pháp vần vè dân gian. Đương nhiên điều này ít nhiều cũng sẽ phục vụ cho màn tự bạch-tiểu nông-kia. Song, có lẽ “thuốc bổ dù uống nhiều cũng shock’. Ngôn ngữ thi ca nói như Roman Jacobson là “ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó”. Nói để nói cái gì với ai đơn thuần, là chức năng thông tin. Nhưng, nói để nói cái gì với ai bằng lời nói đẹp, là chức năng thẩm mỹ. Chức năng thẩm mỹ lộng lẫy che phủ chức năng thông tin đó là thi ca. Cầm bằng, ngược lại thi ca sẽ bị đẩy lùi, thế chỗ nó là thể loại vần vè hoặc khẩu ngữ dân gian. Ở đây, dường như, khẩu ngữ không được sử dụng như một thủ pháp mà như một quan niệm nhất quán về ngôn ngữ thi ca. Ở một số thi đoạn giàu tính thơ hơn cả như: Miền tuyết bỏng; Phân thân…tiếc thay, dường như lại chẳng liên lạc gì mấy, đến cuộc thoại của nhà thơ với Bin-Ghết và trời xanh. Sự ngẫu hứng có khi cũng khiến tác giả “bỏ quên” nguyên tắc hoán dụ, phép tu từ thiết cốt trong sườn tự sự-trữ tình này. Đối thoại (hay độc thoại) với Bill Ghate ở đây, về mặt thi pháp, cũng tương tự như cuộc đối thoại của Krishna với Ajruna trong Chí Tôn Ca đâu chỉ đơn giản là cuộc trò chuyện giữa một gã đánh xe với chàng dũng sĩ hoặc với ý hướng tương tự Con Quạ cũng chỉ là biểu tượng cho cái vĩnh cửu để Edgar Poe bộc bạch những triết luận về cuộc nhân sinh. Ở đây, Nếu chỉ là  ngài tỷ phú IT Bill Ghate chứ không phải là một biểu tượng của nền văn minh kỹ trị, thì có lẽ đâu cần phải dài lời đến thế. Tuy nhiên, việc sa  đà vào các màn “trữ tình ngoại đề” đầy  ngẫu hứng kia. Khiến nhà thơ, rời xa cái sườn tự sự trữ tình với cuộc đối thoại văn hóa Đông –Tây ngầm định kia mà sa vào mô tả chi tiết vụn vặt trong đời sống trữ tình của cái Tôi cụ thể. Như:
Bin Ghết(Bill Gates)
Chẳng nhẽ cậu không thường xuyên vào google để tìm tên mình? …………….
hoặc:
Bin Ghết
Bà lão  của hai cậu con trai tớ đêm nay ngủ một mình
Không chỉ đêm nay mà gần 20 năm nay ( gần như thôi nhé) đêm nào cũng thế
………………………………………………………………………………………
 Khó có thể nói, những điều này không ít nhiều phục vụ cho ý hướng trường ca. Song, điều cần bàn là, việc cụ tượng hóa các biểu tượng văn hóa giàu tính khát quát, phải chăng không ít nhiều khiến cho trường ca vuột khỏi tầm vóc phải có của mình? Và phải chăng, chính sự phóng túng trong ngôn ngữ và cấu trúc đã khiến cho những ưu điểm mà có người nhận xét là::
cách tư duy táo bạo
ngôn ngữ trào lộng- nghiêm túc trong mối quan hệ xã hội…
đã  bị giảm thiểu đi rất nhiều.
Tuy nhiên. Xét từ bình diện văn hóa, với các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba vào cuối thế kỷ 20, đặc biệt cách mạng viễn thông - tin học (télématique), sử dụng điện tử thay thế con người xử lý những thông số, giải phóng trí óc, tự động hóa sản xuất. Từ đó đẻ ra nền văn minh kỹ trị, con người bị “máy móc hóa”, coi sức mạnh công nghệ là thống soái. Tuy nhiên, tính chất vật chất - máy móc, mạnh mẽ, quyết liệt của nó, đã khiến cho nền văn minh này tha hóa trong sự ngạo mạn của khoa học tự nhiên với những hệ lụy thật khủng khiếp như: chiến tranh, ác bệnh, thảm họa thiên nhiên, Ô nhiễm môi trường...Mặt khác, nó cũng khiến cho con người bị hoen gỉ tâm hồn trong tư thế của những Robot đã được lập trình. Nhà thơ với trực giác ngôn ngữ và tri giác lịch sử, văn hóa vô cùng mẫn cảm, nói như Breton là người tiền trạm của tương lai. Đã “rung chuông” báo thức nhân loại bằng những thi phẩm của mình. Tuy khó có thể nói, đây là một trường ca trọn vẹn xét từ ý nghĩa thể loại. Song, rõ ràng  chỉ với cảm thức thời đại mãnh liệt đến thế nào, mới có thể khiến nhà thơ ngồi vào bàn để sáng tạo nên bức thông điệp “gửi Bin-Ghết và trời xanh” đầy ý nghĩa. Và phải chăng, đây không phải là một nỗ lực đáng ghi nhận trên hành trình xa thẳm của một thi nhân.
                                                                                                      Trần Sáng


NGUON: HOINHAVANVIETNAM.VN
http://hoinhavanvietnam.v...hoi-ky-tri/32/0/3340.star

Ảnh đại diện

Cảm tác (Nguyễn Anh Nông): 7 tác giả dịch sang 3 thứ tiếng Trung-Anh- Pháp

Nguồn:
Trang Blogs Nguyễn Việt Hùng
http://nguyentuanhung.vnw...logs.com/post/1273/287834

Ảnh đại diện

Cảm tác (Nguyễn Anh Nông): Hoạ sĩ Lâm Chiêu Đồng trao đổi thêm

Cái quan trọng nhất chính là bài thơ của anh! Bài thơ mang khí chất hào sảng lắm!
Những bài dịch chỉ vẽ lên được cái hình, phần hồn thuộc tác giả Nguyễn Anh Nông đó thôi!
Riêng bản dịch của Bác Vũ Công Hoan cũng thật xuất sắc! Tôi thì giỏi lắm cũng chỉ tô phết chút xíu bên ngoài hòng được ăn theo tác giả hi hi.
Chúc anh cùng toàn gia quyến được an khang nhé!

Lâm Chiêu Đồng
Viết bởi luonggiabao 21 Jan 2010, 20:15
http://ngoctanns.vnweblogs.com/post/4314/210010

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): Nhà thơ Duy Phi gửi qua e mail

Từ: Duy Phi Nguyen <duyphitho@gmail.com>
Đến: Nong Nguyen <nguyenanhnong@yahoo.com.vn>
Gửi ngày: 18:19:07, Thứ Hai, 28 tháng 2 2011
Trường ca Gửi Bll Gates: Thơ hiện đại, uyên bác
   Chúc Nhà thơ NGUYỄN ANH NÔNG vui,
   nhiều thành công mới .. .

    Duy Phi

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): Nhà thơ Ngọc Bái gửi qua e mail

10:22:27, Thứ Sáu, 11 tháng 3 2011
Từ: Ngoc Bai <baingocbai@yahoo.com>   
Đến: Nong Nguyen <nguyenanhnong@yahoo.com.vn>


Chúc mừng Nguyễn Anh Nông. Lao động thơ nghiêm túc. Một lối nói trào lộng, tạo được ấn tượng và hiệu quả thẩm mĩ.

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): Bìa tập trường ca: Gửi Bill Gates và trời xanh

Xem tại địa chỉ sau:
http://nguyenbao.vnweblogs.com/post/5298/284714

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): Nguyễn Văn Lai cảm nhận Gửi Bill Gates và trời xanh

Thưa bạn. Tôi vừa nhận được cảm nhận của bạn tôi- một người lính vừa gửi tới. Xin đưa lên đây cho vui. Mọi khen chê về hay , dở của tập trường ca này chờ đợi vào sự phán xét của bạn đọc và thời gian. Xin cảm ơn Nguyễn Văn Lai

Xin đưa nguyên văn cảm nhận của bạn tôi

                                             NAN



Cảm nhận đọc gửi Bin GHết (BILL GATES) và trời xanh

  NGUYỄN VĂN LAI


Đọc trường ca gửi Bin Ghết và trời xanh của nhà thơ Nguyễn Anh Nông, lời thơ rất bình dị và kiêu hãnh. Nhà thơ mượn lời trao đổi của một người nông dân Việt Nam rất bình thường trò chuyện bình đẳng và song phẳng với nhà tỷ phú người Mỹ giầu nhất nhì thế giới. Trường ca đã cho người đọc thấy được mọi vấn đề chỉ là tương đối, giầu nghèo chẳng cách biệt, có thể giầu về tiền bạc, của cải nhưng chưa hẳn đã bằng giàu về tình cảm, tình yêu con người. Trường ca là thông điệp nói về sự công bằng của con người dù ở vị trí nào cũng có vai trò nhất định trong xã hội và trong thế giới tự nhiên. Đồng thời, nâng con người Việt Nam lên tầm cao mới nhưng vẫn trân trọng bạn bè và đối thủ; đề cao trí tuệ, công sức của những người có nhiều cống hiến cho nhân loại. Trường ca khẳng định đã là con người phải có tình yêu thương nhân loại, yêu quý vạn vật, thấy được mọi sinh linh từ con muỗi, con kiến đều có ích, là bạn của con người; mỗi thực thể của sự sống có sự tương tác hỗ trợ lẫn nhau. Đọc trường ca gửi Bin Ghết và trời xanh thấy rõ được nền văn minh lúa nước Việt Nam không thua kém gì nền văn minh Hoa Kỳ. Mỗi nước có một thế mạnh riêng của mình, người Mỹ có thể giỏi nhiều thứ nhưng người Việt Nam cũng có những thế mạnh riêng của mình mà người Mỹ không thể theo kịp. Văn Minh của Mỹ là văn minh của tiền tài và khoa học công nghệ tiên tiến, nhưng nền thơ ca của họ đã “chết” và kém phát triển đến vậy.
Thường thì con người ta ai cũng sợ kẻ mạnh, ai cũng sợ kẻ trên mình, nhưng với Nguyễn Anh Nông lại dám mạnh dạn “tiến công” vào kẻ mạnh. Nhà thơ không nghĩ rằng người nào giàu có, lắm tiền là kẻ mạnh, mà cho rằng con người ta hơn nhau là ở chỗ có tình yêu nhân loại, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; biết làm bạn với cỏ cây, hoa lá, với mọi sinh linh và con người. Cuộc sống không chỉ có nhu cầu ăn mặc, chơi sang mà rất cần tình yêu, trước hết phải hiểu nhau, trân trọng nhau, đến với nhau bằng tấm lòng. Hoà bình là ước vọng ngàn đời của thế giới nói chung và con người Việt Nam nói riêng. Nước Mỹ hiện đại và văn minh là thế nhưng lại là nguyên nhân của tội ác và chiến tranh, như vậy có thể nói nước Mỹ đang kéo lùi sự văn minh phát triển của nhân loại đi xuống.
Chỉ là cuộc trò chuyện giữa hai con người với nhau, nhưng thực chất lại là đối thoại của hai quốc gia, hai nền văn minh đông - tây, là sự tranh luận của hai trường phái về nhận thức cái hay, cái đẹp, cái tốt của nhân gian với sự phát triển giầu có bất chấp mọi hậu quả có thể xảy ra. Tuy nhiên, với nhà thơ “Bạn là bạn, thù là thù” nhưng “Chưa hẳn bạn đã là bạn, thù đã là thù”. Bằng cách tư duy sáng tạo và cách nhìn thẳng thắn như vậy, nhà thơ Nguyễn Anh Nông giúp người đọc thấy được nhân tình thế thái và cách đối xử của con người với nhau là phải công bằng và trân trọng, giữa lời nói và việc làm phải có sự thống nhất. Anh cho rằng “Mỗi ngày sống ta như người mắc nợ, với trái đất này bạn ơi !”

 3/2011


Nguyễn Văn Lai

NGUỒN:

http://anhtuan123.blogtie...ar_c_garsi_bin_ghaoit_bil


http://ngoctanns.vnweblogs.com/post/4314/284142

Ảnh đại diện

Chương I (Nguyễn Anh Nông): Nhà thơ, nhà phê bình Đỗ Quyên(Ca Na Đa) góp lời

“Trong một cấu trúc trường ca vững vàng và uyển chuyển, thi sĩ cất lên giọng điệu trào tiếu, riêng và mới; để triết lí, để tự sự và cũng để trữ tình qua nhiều đề tài. Đó là đóng góp đáng kể của tác giả, về tư duy thể loại: Chất Hài vốn cùng chất Hùng và chất Bi làm nên sự Cao cả, nhưng thường thì trường ca của Việt Nam nói riêng, và của thế giới nói chung, chỉ đậm đà ở chất Hùng, lãng đãng ở chất Bi.

Một cuộc đối thoại giả tưởng trong kỷ nguyên mọi điều có thể xảy ra trên trường quốc tế - nhà thơ Việt mang họ Nguyễn tên Anh Nông đã làm được như thế bằng thơ, qua cung cách dân gian của Cuội, của Trạng trong tri thức mới, hành xử mới.

GỬI BILL GATES VÀ TRỜI XANH đang cùng không ít các trường ca khác đẩy dòng thơ trường ca Việt trôi theo tinh thần hậu hiện đại của xã hội Việt Nam, và cũng là của thế giới!”

                                                                    3/3/2011                                         

                                             Nhà thơ, nhà phê bình Đỗ Quyên


http://ngoctanns.vnweblogs.com/post/4314/283348

Trang trong tổng số 25 trang (244 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: