Trang trong tổng số 25 trang (242 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Phụng hoạ ngự chế “Trú Giao Thuỷ giang” (Thân Nhân Trung): Bản dịch của Trần Lê Văn

Thôn trang gà chó lặng im rồi
Gió thổi bên bờ trăm vẻ vui
Buổi sớm khánh reo, chùa vẳng tiếng
Ban chiều tiêu thổi, nước rung hơi
Mưa thừa, tươi tốt tràn ngô lúa
Mây tạnh, phong quang khắp đất trời
Vật thịnh, dân yên, xuân sắc đẹp
Thuyền hoa tựa bóng cầu, nhẹ bơi


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Đề Cổ Mễ sơn tự lâu chung (Võ Giàng huyện) (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Bùi Quảng Thuận

Đứng trên lầu ngọc liếc nhìn qua
Khói biếc dập dờn thôn xóm xa
Thế núi dọc ngang, mây rợp bóng
Thông reo xào xạc, ánh trăng ngà
Cây che lối tắt hoa mưa ướt
Sư tụng chân kinh mõ gió đưa
Du khách gặp may vui thưởng thức
Bạn thơ chẳng có, biết cùng ai

Ảnh đại diện

Lập xuân hậu nhị nhật hộ vương thượng giá ngự Tây Hồ hành cung tác (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Bùi Quảng Thuận

Sóng hồ như gấm phẳng mênh mông
Xuân đến tới đây tựa đăng lâm
Ngàn liễu gió hoà thay lá mới
Mạ non khí ấm trổ cây mầm
Bóng cờ bóng lưới đan xen phủ
Đập giấy xe loan hoà nhịp âm
Mây nước tấm gương trải rộng khắp
Giúp vua soi tỏ việc cổ kim

Ảnh đại diện

Mạc Đăng Dung (Tự Đức hoàng đế): Bản dịch của Hoàng Khôi

Thiết Sơn đã chết, có ai ra
Làm giặc, làm chài, vốn nghiệp nhà
Cửa quân tự trói, xin quan tước
Vừa chúa, vừa tôi nhục thế a

Ảnh đại diện

Mị Châu (Tự Đức hoàng đế): Bản dịch của Hoàng Khôi

Lẫy nỏ Kim Quy lấy trộm xong
Lần theo lông ngỗng rắc đường cùng
Ngọc châu hoá kiếp thân trung tín
Nước giếng thành Loa rửa sáng trong

Ảnh đại diện

Tương Dực đế (Tự Đức hoàng đế): Tiểu sử về vua Lê Tương Dực

Theo "Thế thứ các triều vua Việt Nam" do Nguyễn Khắc Thuần biên soạn, tiểu sử của vua Lê Tương Dực được chép như sau:

Lê Tương Dực 黎襄翼(1510 - 1516), họ tên là Lê Oanh (cũng đọc là Oánh), lại có tên khác là Lê Trừ. Vua là con của Kiến Vương Tân (Kiến Vương Tân là con thứ năm của vua Lê Thánh Tông, em của vua Lê Hiến Tông, chú của Lê Túc Tông và Lê Uy Mục). Thân mẫu là Từ Huy Hoàng thái hậu, huý là Trịnh Thị Tuyên, người xã Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, con gái của quan Tả tôn chính Trịnh Trọng Phong. Vua sinh năm Quý Sửu (1493), thời Lê Hiến Tông, được phong là Giản Tu công, khi Lê Uy Mục lên ngôi, vì kinh thành có biến nên chạy vào Thanh Hoá. Tháng 10 năm Kỷ Tị (1509) được quần thần tôn lên ngôi để lo việc lật đổ Lê Uy Mục. Tháng 12 năm đó (1509), giết Lê Uy Mục mà lên ngôi. Vua ở ngôi hơn 6 năm, bị giết vào ngày 7 tháng 4 năm Bính Tí (1516), thọ 23 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua có đặt một niên hiệu là Hồng Thuận 洪順 (1509 - 1516)

Ảnh đại diện

Tương Dực đế (Tự Đức hoàng đế): Tiểu truyện về vua Lê Tương Dực

Sách "Sử ký" phần "Bản kỷ" chép

Tương Dực đế, tên huý là Oanh, là cháu của vua Lê Thánh Tông. Nguyên ngày trước, Đế được phong Giản Tu công, rồi sau khi giết Uy Mục đế, Giản Tu công tự lập lên ngôi Thiên tử tức Tương Dực đế. Tương Dực đế ngày càng buông tuồng, xa hoa và dâm dục. Nhân sứ thần nhà Minh là Phan Hy Tăng (phó sứ) tới nước ta về việc sách phong, mới có dịp được yết kiến nhà vua. Phan Hy Tăng nói với viên chính sứ là Trạm Nhược Thuỷ rằng: "Quốc vương An Nam diện mạo thì đẹp đẽ, nhưng thân hình thì lại nghiêng nghiêng (không ngay thẳng), mà tính nết lại ưa dâm đãng. Ấy là trư vương (vua lợn) vậy! Không còn bao lâu nữa, cái loạn diệt vong sẽ đến với quốc vương ấy". Tương Dực đế ở ngôi được 7 năm. Trong thời gian ở ngôi báu, Tương Dực đế chỉ lo xây cất nhà cửa, lâu đài. Đế đã xây dựng điện lớn gồm hơn một trăm ngôi nhà, lại còn khởi công kiến trúc đài cao đến chín tầng, làm khánh tận của cải và nhân lực trong nước. Tương Dực đế lại thường ngày du ngoạn phong cảnh Tây Hồ. Đế sai khiến bọn nữ sử cởi áo quần trần truồng rồi tay cầm cái chèo đánh nhịp để làm đại nhạc. Đến sau, quyền thần là Trịnh Duy Sản giết Tương Dực đế ở địa phận phường Bích Câu (Hà Nội).

Ảnh đại diện

Tương Dực đế (Tự Đức hoàng đế): Bản dịch của Lê Xuân Giáo, Nguyễn Quang Tô

Tây hồ mặt nước bỗng dời châu
Thấm thoắt sương mù đến Bích Câu
Nhà rộng, lầu cao ai nghỉ đó?
Trư vương nào khác Quỷ vương đâu

Ảnh đại diện

Đình tiền trúc (Phùng Khắc Khoan): Bản dịch của Thái Phương

Lối khuất rèm thưa nắng chiếu sân
Muôn loài so trúc khó thanh tân
Tuyết rơi vẫn mọc xanh từng khóm
Mưa đọng chồi sinh cội trắng ngần
Trồng đức một nhà che bóng mát
Phong hầu nghìn hộ hứng quân ân
Lúc nhàn nghe vẳng đàn thánh thót
phảng phất nhạc thiều tấu góc sân

Ảnh đại diện

Thư cưu (Phùng Khắc Khoan): Bản dịch của Trần Lê Sáng

Dạng giống uyên ương lại giống ban
Thích nơi sông nước chẳng ưa non
Quan quan bầy bạn ngoài ghềnh gọi
Từng cặp theo nhau bãi giỡn đàn
Tích cũ chim cùng Tư mã đó
Đức xưa sánh với Hậu phi nhàn
Cầm tay từ biệt niềm lưu luyến
Chồng vợ thuỷ chung cũng ví von


Bài thơ trên được rút từ tập "Độc thi đa thức tập".

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 25 trang (242 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: