Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyên đán tựu đạo (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Gió bắc, trưa ngừng thổi,
Núi xa cười đón người.
Xuân đến bao giờ nhỉ.
Mà cỏ cây tốt tươi.
Tường vách, đu in bóng,
Làng xóm, pháo vang trời.
Đồng quê lạnh chuyển ấm,
Cảnh mới, ý tình vui.

Ảnh đại diện

Đề Minh Ninh tân văn biên sự cảm tác (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Xong trọng trách, đường về muôn dặm,
Thuyền sứ nay nhằm thẳng bến xưa.
Đã nghe tin tức cõi bờ,
Lại trông thấy bụi mịt mờ ải quan.
Suông tình nhỉ! ca vang giao hảo,
Ơn lửa nồng: chuyện hão từ lâu.
Sắp về đất nước gặp nhau,
Nỗi mừng xen lẫn lo âu lạ nhường!

Ảnh đại diện

Đặng Lặc đường thứ Dung Đài vận (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Thuyền quanh co tiến vào eo núi,
“Cạy”, “bát” hò vang dội sóng đưa.
Hoa Sơn lớn nhỏ khác xưa,
Cửa sông Cần, Lệ nhấp nhô thác ghềnh.
Tiết thu muộn, lá cành vàng, tía,
Dây leo đầy, vắng vẻ xóm thôn.
Ngày về, trăng hẳn đã tròn,
Gà gô mỏi miệng bồn chồn “Gia! Gia!”

Ảnh đại diện

Chiêu Đức đài phú biệt bạn tống Tần Dung đài tư mã (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Cỗ xe chủ khách, gió biên thuỳ,
Nhớ bạn đồng du những chuyến đi.
Mây sớm, núi xa, chia cảm hứng,
Mưa đêm, thuyền cách, sẻ sầu bi.
Bạn như ruột thịt, non kề biển,
Ta trải hồ sông, thu tiếp hè.
Sớm ngại chia tay cùng dứt áo.
Năm năm cánh nhạn chuyển thư về.

Ảnh đại diện

Nam Dương hoài thảo lư di tích (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Quạt lông mở khép gió cùng mây,
Dấu Ngoạ Long còn mãi đến nay.
Tro nóng trời chia ba nhánh vạc,
Nước soi tài lớn một tên thầy.
Y Chu, triều Hán tìm sao được!
Duệ, Ý quân Tào bắt khó thay!
Chẳng thể về lều, cày thoả chí,
Trời bâng khuâng, hoa cỏ chau mày.

Ảnh đại diện

Tòng Trăn Vĩ cải lộ (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Cầu Trăn, Vĩ xe qua vội vã,
Cảnh sắc nhìn nay đã khác xưa.
Gió reo cát giải bãi bờ,
Băng tan, nước lại lắng đưa theo dòng.
Cười thói cũ ca bông thược dược,
Kiệu giúp người thuở trước, nhớ lâu.
Du quan như thúc ban đầu,
Sứ trình thêm lắm chữ câu đẹp lòng.

Ảnh đại diện

Thư Nịch ngẫu canh xứ kỳ 4 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Xưa nay anh hào trọng xuất xử,
Lấy chốn nước non làm sở cứ.
Vàng bạc, buồn thay! dẫn thế tình,
Chỉ nơi tiềm ẩn có cao danh.

Ảnh đại diện

Thư Nịch ngẫu canh xứ kỳ 3 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Chợt gặp Tử Lộ hỏi bờ bến,
Tên tuổi ngàn năm còn hiển hiện.
Chim hồng thuở ấy nếu cô đơn,
Không ai hỏi bến danh sao còn!

Ảnh đại diện

Thư Nịch ngẫu canh xứ kỳ 2 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Thư Nịch ban đầu há muốn lánh,
Vài câu có thể hợp tính tình.
Đôi bạn cày ruộng bên sông xanh,
Nào nghĩ ẩn dật hòng lưu danh!

Ảnh đại diện

Thư Nịch ngẫu canh xứ kỳ 1 (Phạm Hy Lượng): Bản dịch của Trần Lê Văn

Mây núi bay ra mưa thấm khắp,
Rồng thần chưa dậy, dấu xa lắc,
Ai cũng ở ẩn, ai giúp đời?
Bạn bè biết đâu tìm tăm hơi!

Trang trong tổng số 7 trang (64 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: