Từ NỤ CƯỜI NGƯỜI HÀNG XÓM, thấu hiểu một tấm lòng chân thật, tình đời nồng ấm… (Thơ Bùi Thị Sơn trong tập ĐẾM TUỔỈ MÙA ĐÔNG, Nxb Văn hóa Dân tộc, phát hành tháng 3/2010) Tôi đang có trên tay tập thơ in chung ĐẾM TUỔI MÙA ĐÔNG (N xb Văn hóa Dân tộc, phát hành tháng 3/2010) của ba tác giả: Phùng Cù Sân, Bùi Thị Sơn, Phùng Hải Yến. Bạn sẽ thấy thú vị và độc đáo khi biết đây là sáng tác của một gia đình yêu thơ, làm thơ, lại có thơ hay của cả bố, mẹ, con gái. Cuộc đời họ đã là một bài thơ đẹp. Nhà thơ Mai Liễu trong bài giới thiệu: “ ĐẾM TUỔI MÙA ĐÔNG- Độc đáo bài thơ cuộc đời” đã đánh giá đúng, với nhận xét tinh tế “…tình đời chắc mãi còn nồng ấm trên mỗi trang viết ấy. Bởi thơ cần nhất ở sự chân thật”. Tôi đã hơn một lần viết phẩm bình thơ Phùng Hải Yến, khi em đang tuổi “teen” trên blog của mình, tung lên mạng xã hội, mừng vì được bạn đọc ưu ái, với 4375 lượt truy cập, cả commemt (blog.tamtay.vn/phuonglien svhtt/blog); rồi được VĂN NGHỆ LAI CHÂU in, giới thiệu cùng bạn đọc. Bài VỀ PHÍA QUÊ MÌNH, thơ Phùng Hải Yến, đầy ám ảnh, dung dị, sâu lắng, như mơ như thực, tìm cứu cánh ở sự tĩnh tâm, hướng nội trước ồn ã xô bồ dòng người, dòng đời, sống trong hoài niệm tuổi thơ trong sáng, bay bổng, tìm về miền cổ tích, trở về “ Cái ngây thơ vĩ đại” (Kar Mark). Sau đó tôi lặng thầm đọc thơ Phùng Hải Yến, nhưng không viết gì thêm. Làm thơ mà lắm người tung hứng thì dễ bay bổng lên mây, rơi phịch xuống đất. Nhất là thơ vần vè, êm tai, lại được phổ nhạc. Tôi không biết thơ Phùng Hải Yến đã được phổ nhạc chưa? Chỉ biết bài TRAI RỪNG, thơ Bùi Thị Sơn, mẹ của Phùng Hải Yến, đã thành bài hát tham dự nhiều liên hoan, hội diễn, hội thi nghệ thuật quần chúng, cả liên hoan, hội diễn, hội thi nghệ thuật chuyên nghiệp, gặt hái nhiều huy chương, gặt hái những tràng pháo tay nòng nhiệt của khán giả.. Nhạc sĩ Vũ Duy Cương( chánh văn phòng Hội nhạc sĩ Việt Nam) không giữ nguyên bài thơ, chỉ thổi hồn, chắp cánh cho thơ bay cao, vang xa. Xin phép các nhạc sỹ và những nhà nghiên cứu- phê bình âm nhạc, “múa rìu qua mắt thợ”, tôi dám khẳng định ca khúc TRAI RƯNG (Nhạc Vũ Duy Cương, lời thơ Bùi Thị Sơn) là một ca khúc hay. Hay ở phong cách nhạc rock hiện đại, mạnh mẽ, khỏe khoắn, trẻ trung. Hay bởi nhạc sỹ đã dùng tiết nhịp, âm hình chủ đạo rất ăn nhập với ý thơ, hồn thơ. Hay ở sức khám phá và những đôt phá trong tiết nhịp, dấu lặng, độ cao thấp của âm thanh trong mô tiến, cấu trúc câu nhạc, đoạn nhạc( âm hình)… thể hiện đắc thể ngôn ngữ, cá tính, tâm hồn chất phác, thẳng thắn, chân thật và tình yêu vừa nồng cháy, bạo liệt, vừa tinh nghịch, thô nhám, bộc trực, hồn nhiên của người miền núi, của chất “ trai rừng”. Và, hay bởi dư ba bài thơ tự bản thân nó đã giàu nhạc tính, tiềm ẩn phong cách rock: “ Trai rừng như cây thông mọc thẳng nói lời yêu rạch ròi: -Tao thích mày”. Câu thơ trần trụi, thô nhám, sù sì, như câu nói ngắn gọn, nhưng giàu nhạc điệu: “Trai rừng dám cầm tay bẹo má người tình giữa chợ …Trai rừng thích vợ mình là người tình đắm say mộc mạc…” Tôi là người từng làm thơ và thích kiểu thơ trần trụi, nhưng nắm bắt được những chi tiết “đắt”, những chi tiết cụ thể, sinh động, giàu tính khái quát, khắc họa được tâm lý, tính cách, tạo dựng “nhân vật trữ tình”, “chủ thể trữ tình”, “hình tượng” trong thơ như thế, thật ra là điệu tâm hồn, chất miền núi, là phong vị thơ, là chất thơ mang nét bản sắc dân tộc vùng cao độc đáo, đậm đà. Bài thơ không bị gò bó bởi vần vè, nhạc điệu cũ nhàm, có một thứ nhạc điệu bên trong, nhạc điệu tâm hồn hòa quyện âm thanh núi rừng, âm thanh thiên nhiên bao la, khoáng đạt, cứ thì thầm, ngân nga, để người ta nhớ, thảng thốt mà da diết…(*) Tôi nói cái thảng thốt mà da diết, ở một bài thơ khác của Bùi Thị Sơn, bài NỤ CƯỜI NGƯỜI HÀNG XÓM: “Nụ cười Anh vô ý bỏ quên … Em vội giấu vào đêm …trộm nhìn len lén …nhói tim …tên tẩm thuốc độc Em trúng thương, quay cuồng đầu óc Ngủ gối tay chồng … lạnh buốt Được chồng ôm thật chặt mà dửng dưng xa cách Up mặt vào trong chăn em khóc thầm…” Giời ạ! Anh Phùng Cù Sân ơi. Cái anh hàng xóm đào hoa kia chỉ cười nụ thôi mà làm anh suýt mất vợ đấy! Vì vợ anh là một người đàn bà đa tình, trắng trẻo, xinh xẻo. Tôi (và cả anh), và nhiều đàn ông khác cũng có thể là, đã từng là cái anh hàng xóm tủm tỉm cười, để vợ ngươi ta tưởng tượng, “tưởng bở”…Cái vô thức, cái bản năng gốc của con người vốn đầy “phật tính”, cả đày dục tính ( Khoa Phân tâm học gọi là libido- dịch nghĩa là “cái dâm loạn”), luôn háo hức cái mới, của lạ. Nó chi phối cảm xúc và hành vi mà lí trí rất khó kiểm soát. Nó vừa có cái tốt, tác động đến chỉ số thông minh(IQ) và tài năng con người, vừa có cái xấu là kéo con người về phần con, phần thú tính! May mà chúng mình có cái “đèn đỏ lương tâm”, có cái “đèn pha ý thức”, nên đều biết “stop here “(dừng ngay ở đây). Bùi Thị Sơn dồn nén, giải tỏa bản ngã, phát tiết thành thơ, trung thực với chính mình, nhìn thẳng vào mình, dám là mình, để không dối mình, dối người, dối đời. Có người tốt đến mức đáng nghi, có người tốt đến mức đáng ghét. Bùi Thị Sơn tốt đến mức đáng để cánh đàn ông chúng ta xây một thánh đường cho nàng vừa làm cha cố, vừa làm bà “xơ”, vừa làm con chiên, tự mình xưng tội, rửa tội. Với tôi, lòng tốt của Bùi Thị Sơn vừa đáng trân trọng, vừa đáng thương( thể hiện rõ ở bài LINH CẢM), vừa đáng yêu, ngây thơ thật (khác ngây thơ cụ!), đẹp như trong truyện cổ tích (mô típ cô gái nghèo xấu xí yêu chàng mồ côi, kết thúc có hậu, chàng mồ côi trở thành hoàng tử, hoặc thành vua, còn cô gái nghèo trở nên xinh đẹp, trở thành hoàng hậu!).
(tiếp) Bùi Thị Sơn làm THƠ TÌNH TẶNG CHỒNG: “ Trừ những nét xấu ra, tự thấy mình cũng đẹp …Em yêu anh tha thiết chân thành Từ khi là cô bé con mười sáu tuổi Lãng mạn, mộng mơ và cũng hay buồn tủi …không hề nông nổi …em sinh ra dành để cho anh Chàng mồ côi hiền chăm em đọc trong cổ tích … Anh biết không đã có bao đêm Em lặng lẽ ngắm nhìn anh ngủ Lặng lẽ hát ru những bài ca tình mẹ Thưở ấu thơ anh chẳng được mẹ ru … Nép bên anh- Phăng Xô Lin vời vợi” Và: “ Như vầng trăng chỉ đêm rằm mới tỏ Chỉ có anh- em mới thật là em” Thơ Bùi Thị Sơn cứ giãi bày, dãi dề, vò xé nội tâm trong mâu thuẫn Con người bản năng- giới tính đầy nhục dục, kìm nén khao khát với Con người xã hội- lý tưởng đầy mô phạm, đầy giáo điều, nhưng cũng đầy Cái Đẹp đích thực; con người Nho giáo quá độ lên Con người mới “ Công- Dung- Ngôn- Hạnh” khắc kỷ, đầy bài học răn dạy luân lý, đầy trách nhiệm chung riêng với Con người Lễ hội- Thơ nhạc phát tiết thăng hoa trong khát vọng bình đẳng, tự do giữa thần và người, hiển quý và bình dân, trai và gái…khát vọng vươn tới CHÂN- THIÊN- MỸ. Vô thức, bản ngã Bùi Thị Sơn bị câu thúc, kiềm tỏa bởi những chuẩn mực luân lý, đạo đức, khế ước xã hội.. Nhưng bản ngã ấy, vô thức ấy vẫn luôn đồng hành trong cuộc sống thường nhật; lại càng phức tạp, mâu thuẫn trong quá trình chuyển động cũ- mới, bảo thủ- tân tiến, hướng nội- hướng ngoại của nhiều tiếp biến văn hóa, của bao bất trắc, đấu tranh ý thức hệ…Tôi cứ thầm kỳ vọng thơ Bùi Thị Sơn đang sục sặc quẫy cựa, đang tìm chính mình. So sánh có khập khiễng không, rằng vẻ đẹp một số câu thơ hay của Bùi Thị Sơn hao hao giống vẻ đẹp Thúy Vân, đôi câu pha chút vẻ đẹpThúy Kiều. Đó là vẻ đẹp tròn trịa, má “phinh phính bánh đúc” của Thúy Vân, thỉnh thoảng lóe sáng vẻ “sắc sảo, mặn mà” của Thúy Kiều! Nói thật, Bùi Thị Sơn chưa có những câu thơ tài hoa. Cái tạo nên chính mình trong thơ của Bùi Thị Sơn là sự chiến thắng của tình yêu đằm thắm, thủy chung bên trong những mâu thuẫn, giằng xé, là tấm lòng nhân hậu của người vợ, người mẹ, là cái ý thức, cái sự bằng lòng, hiểu rõ cái “ một nửa” cần có thêm “ một nửa” mới tròn đầy được. Đó là người yêu, người chồng của mình. Thật cảm động khi Bùi Thị Sơn ngắm chồng, cái nửa của mình, vào lúc anh ngủ, lúc anh “ lương thiện” nhất:
Bài thơ VIẾT KHI ANH ĐANG NGỦ là nỗi niềm riêng của cô gái hơ hớ, rào đón nũng nịu, hồn nhiên tươi mới, lại đằm cái tình của người yêu, người vợ, người chị, người mẹ: …” Đừng trách em đa tình… Trái tim em… Luôn rộn ràng, náo nức muốn được yêu ... Biết anh mồ côi từ tấm bé Trái tim em rớm máu tự bao giờ
… Người con gái nào chẳng có nỗi niềm riêng Trước người yêu, họ muốn thành nhỏ bé Muốn được chở che bên bờ vai săn khỏe Muốn được nghe lời đầm ấm dịu dàng
Anh với em trời đất đã xe duyên Để muôn kiếp trở thành chồng- vợ Em còn muốn nhiều hơn thế nữa Làm bạn thân và làm chị của anh
Ngủ đi anh giữa trăng thanh Có em ôm ấp ru anh trọn đời…”
Khép lại bài viết này, tôi chỉ muốn bộc bạch tâm sự với bạn đọc yêu thơ cảm nhận của riêng tôi, rằng thơ Bùi Thị Sơn mới, và chưa mới! (Tôi đã từng “triết lý vặt” với những người “ nhiều chữ” thế này: “ Cái cũ không thể sinh ra cái mới, nhưng cái mới không bỗng dưng mà có, nó phải ra đời từ cái chưa mới . Cố làm ra cái mới thì thành… cái õng ẹo. Thơ õng ẹo có phải là thơ không?...Sự vụng về và ngây thơ đáng yêu dễ chịu, dễ chấp nhận hơn sự thuần thục đến mức đáng chán”!). Nhũng bài có nhạc điệu mới, có nét mới như bài TRAI RỪNG, NỤ CƯỜI NGƯỜI HÀNG XÓM không nhiều. Nhưng bù lại, tấm lòng Bùi Thị Sơn, cảm xúc dồn nén, chân tình, đôn hậu, đằm thắm…cái sức nhẫn nhịn để làm tròn bổn phận làm vợ, làm mẹ, với tình yêu thơ, say thơ, yêu con người, yêu cuộc sống cháy bỏng, hồn nhiên, cả nghị lực chiến thắng những “phút xao lòng”, đã tạo cho thơ Bùi Thị Sơn thứ nhạc điệu bên trong, từ cảm xúc mãnh liệt sản sinh sóng ngầm, sóng lừng, tạo một điệu tâm hồn, “ khía” vào lòng người, đánh thức những tình cảm tưởng đã ngủ yên trong ta, đánh thức và gợi nhiều suy ngẫm về chất thật sự CON NGƯỜI trong ta. Tôi yêu thơ Bùi Thị Sơn chính bởi cái TÌNH THẬT lúc bộc lộ, lúc lặn sâu ấy, cái TẤM LÒNG hiếm hoi ấy! Và xin nhắc lại lời anh Mai Liễu: “…tình đời chắc mãi còn nồng ấm trên mỗi trang viết ấy”
Trên tay bạn đọc là tập thơ khá độc đáo. Độc đáo bởi đó là tập sáng tác của một gia đình: Hai vợ chồng và cô con gái trẻ. Có thể nói: “Đếm tuổi mùa đông” là tâm sự cuộc đời của chính các tác giả đang sống và làm việc tại Lai Châu, một trong những tỉnh miền núi xa xôi và khó khăn nhất của cả nước. Có thể ban đầu họ không có ý định làm thơ, càng không nghĩ rằng rồi sẽ trở thành nhà thơ, nhưng cuộc đời của họ là cả một bài thơ đẹp. Tất cả đều bắt đầu từ cuộc đời của người chồng, người cha có tên là Phùng Cù Sân. Phùng Cù Sân, anh sinh ra tại một bản Dao dưới chân núi Phăng Xô Lin thuộc huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vào năm 1950 - khi ấy Lai Châu chưa được giải phóng. Cậu bé người Dao từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ: Đói ăn, rách rưới và đi ở là cuộc đời niên thiếu của Phùng Cù Sân. Hãy nghe Phùng Cù Sân tâm sự về thảm cảnh của hai đứa trẻ mồ côi những năm tháng ấy: Năm vừa lên ba, con mất mẹ, Đứa em trai con mới biết bò Xác mẹ phủ chiếu manh Giữa túp lều lạnh cóng Em con lăn xả vào Bú khô Cha con nghiện ngập Đem con đi ở cho người Đổi lấy tiền hút thuốc Mặc hai con đói rách tả tơi… Và nữa: Thiếu thuốc phiện cha con kiệt sức Trút hơi tàn trên thửa ruộng cằn khô Hai đứa trẻ gầy nhom , nhem nhuốc Đói cồn cào nước mắt tuôn rơi (Ơn Đảng- Phùng Cù Sân) Ngày Tây Bắc được giải phóng, hai đứa trẻ mồ côi đó được cán bộ của Đảng, của Bác Hồ đón về nuôi và gửi vào trường thiếu nhi vùng cao (nay là trường dân tộc nội trú) học tập. Công ơn của Đảng đối với ông còn lớn hơn cả công ơn cha mẹ sinh thành. Ông xưng “con” trong bài thơ “ Ơn Đảng” là vì thế. Đó là lời giãi bày tâm sự hết sức mộc mạc mà chứa chan tình đời. Cái “thật”có lối đi riêng vào lòng người, gây cho người đọc sự xúc động và cảm thông sâu sắc. Từ mái trường ra đi, ông trở thành thầy giáo, rồi trở thành cán bộ Đảng - đã từng làm Bí thư huyện ủy Sìn Hồ - quê ông, rồi được điều động về tỉnh làm Bí thư Đảng ủy cơ quan Dân -Chính - Đảng của tỉnh Lai Châu cho đến nay. Từ một chú bé người Dao mồ côi đói rách lam lũ dưới chân đỉnh Phăng Xô Lin năm nào nay trở thành một trí thức người Dao, một cán bộ của Đảng có tầm và có tâm là một cuộc đổi đời lớn, thật may mắn và cũng thật kỳ diệu. Nói thơ là người, là cuộc đời cũng là vì vậy. Phùng Cù Sân làm thơ là để nói về cuộc đời mình, rộng hơn là cuộc đời người Dao theo Đảng. Phùng Cù Sân cũng còn một may mắn nữa, bên ông có người vợ hiền, đảm đang, tận tụy luôn cảm thông chăm lo cho ông đến từng giấc ngủ. Bùi Thị Sơn- quê gốc Hải Dương nhưng bà lại sinh ra ở thị xã Tuyên Quang, bên dòng sông Lô thơ mộng. Theo cha mẹ đi kháng chiến, công tác, bà đến Lai Châu và gặp thầy giáo người Dao Phùng Cù Sân. Cô gái người Kinh tuổi còn ngây thơ nhưng đã sớm cảm thông hoàn cảnh của người thầy giáo trẻ: Biết anh mồ côi từ tấm bé Trái tim em rớm máu tự bao giờ Rồi tình yêu đến với họ cũng là lẽ tự nhiên. Bùi Thị Sơn như gắng mãi để bù đắp cho chồng những thiệt thòi của tuổi thơ ấu vô cùng nghiệt ngã của chồng: Dù em có vất vả bao nhiêu Đâu sánh nổi tuổi thơ anh cơ cực? Dù em có chiều anh hết mức Làm sao bù tình mẫu tử thiêng liêng? (Viết khi anh đang ngủ - Bùi Thị Sơn) Tác giả ao ước mỗi nụ hôn của mình có thể” xóa đi một nếp nhăn-xóa đi bao nhọc nhằn gian khổ “ của chồng, mong trên môi của chồng “luôn hé nở nụ cười”. Hạnh phúc với bà cũng thật giản dị, gần gũi mà cũng thật lớn lao, cao cả; bà luôn chi chút cho nguồn sống, nguồn hạnh phúc đó, bởi: Như vầng trăng chỉ đêm rằm mới tỏ Chỉ có anh – em mới thật là em (Thơ tình tặng chồng – Bùi Thị Sơn) Cảm tấm lòng và tình yêu của vợ, Phùng Cù Sân tâm sự: Em sinh ra để đem đến niềm vui Cho học trò, cho anh, cho bè bạn Em hồn nhiên, ngây thơ, lãng mạn Quý nghĩa nhân, khinh vật chất tầm thường. (Tặng em thi sĩ của anh – Phùng Cù Sân) Để rồi đi đâu, hình ảnh của người vợ hiền cũng luôn ở bên ông, rạng rỡ: Dù đi cuối đất cùng trời Nhìn ai cũng ngỡ nụ cười riêng em (Đến thăm huyện bạn lại nhớ em – Phùng Cù Sân) Đó thật là cái nhớ rất riêng của Phùng Cù Sân – người đàn ông miền núi – mà Bùi Thị Sơn gọi bằng tình cảm chan chứa yêu thương là “trai rừng”: Trai rừng Chẳng dễ dãi Trước những lời đầu môi chót lưỡi… … Trai rừng thích vợ mình Là người tình đắm say, mộc mạc Chẳng phấn son, hào nhoáng, mỹ miều. (Trai rừng – Bùi Thị Sơn) Một là người Dao, một là người Kinh; một chôn nhau cắt rốn ở đất núi rừng heo hút, một quê quán ở miền xuôi nhưng họ sinh ra là để dành cho nhau. Họ đồng cảm với nhau từ hoàn cảnh, tính cách và sở thích. Tôi vẫn phải nhắc lại: cuộc đời họ là cả một bài thơ tình rất mộc mạc mà vô cùng say đắm. Thời gian, năm tháng hình như phải đứng ngoài cuộc tình của họ: Quy luật đời hà khắc Ai rồi cũng già thôi Nhưng tâm hồn – em ơi Phải giữ cho trẻ mãi… (Xưa và nay – Phùng cù Sân) Duyên phận đời người thật là kỳ lạ, nhưng cũng ở tại lòng mình: Từ xa lắc xa lơ Ai ném anh vào em Chúng mình thành chồng vợ Cõi trần thành cõi tiên. (Ném – Bùi Thị Sơn) Phùng Hải Yến là con gái của đôi vợ chồng yêu thơ ấy. Hiện cô đang là sinh viên Khoa Sân khấu – Điện ảnh – Viết văn Trường Đại học Nghệ thuật Quân đội. Trong tập thơ in chung với bố mẹ, Phùng Hải Yến có trên 30 bài thơ. Cuộc đời cô con gái khác xa cuộc đời của bố mẹ bởi xã hội miền núi bây giờ đâu giống như xã hội thời ông bà cô ngày xưa, cũng không hẳn giống thời bố mẹ cô đến với nhau, nên duyên chồng vợ trong căn hộ tập thể của trường nội trú thân thương. Cô con gái họ được học hành, thành nhà báo, lại về Hà Nội học. Nói như các cụ ta: được “thỏa chí bay nhảy” đó đây, nhưng tổ ấm gia đình, tấm lòng cha mẹ thì chẳng ai muốn rời xa, cô cũng vậy: Không còn mong mình giống cánh chim trời Bay xa mãi vào khoảng trời cao rộng Con rơi vào khoảng thinh không gió lộng Ngủ yên lành trong lòng mẹ mênh mông... (Mẹ ơi – Phùng Hải Yến) Dù là thế, lớp trẻ bây giờ vẫn có những mối quan tâm, chia sẻ của họ. Đó là lẽ đương nhiên và cũng đáng mừng hơn khi họ vẫn tìm thấy lối về, vẫn nhìn thấy: Điệu khèn bên núi Réo rắt gọi tình yêu Vẫn nghe thấy Điệu hát ngân nga Vọng sườn đồi Leo đỉnh núi Chàng trai yêu ở đâu nghe thấy Về nơi đường mây. (Đường mây – Phùng Hải Yến) Quan trọng hơn, cô vẫn biết trân trọng và cảm nhận sự ấm áp của cội nguồn văn hóa: Bẽn lẽn úp mặt vào cái xiết tay Tưởng hơi ấm sau điệu xòe nằm lại. (Xiết tay – Phùng Hải Yến) Bài thơ cuộc đời của Hải Yến đã sang một trang khác. Trong trang viết của Hải Yến không có cái nhìn trong cuộc như những vần thơ của bố mẹ cô, nhưng tình đời chắc mãi còn nồng ấm trên mỗi trang viết ấy. Bởi thơ cần nhất là sự chân thật. Chúc cho tình yêu, tình đời của họ mãi mãi nồng nàn, ấm áp như hồn thơ biết ủ lửa giữa ngày đông.
Khi ba người một nhà cùng làm thơ, cùng dựng một Ngôi nhà thơ (Đọc tập thơ Đếm tuổi mùa đông - NXB Văn hoá Dân tộc 2010)
KIM NGỌC ĐẠI
Qua những quan hệ ngẫu nhiên với “làng văn nghệ”, tôi biết ở tỉnh Lai Châu có 3 người trong một mái nhà (bố - mẹ - con gái) đều làm thơ, đều sinh hoạt trong Hội VHNT tỉnh. Ở một tỉnh miền núi biên giới xa xôi mà có 3 người trong một gia đình yêu thơ - làm thơ đã là sự lạ, nhưng cả 3 người cùng in thơ chung một tập thơ “đứng được” thì đúng là quý hiếm. Tập thơ Đếm tuổi mùa đông của 3 tác giả Phùng Cù Sân, Bùi Thị Sơn, Phùng Hải Yến được ra mắt bạn đọc tháng 3/2010, do NXB Văn hoá Dân tộc ấn hành. * * * 86 bài thơ trong tập của 3 tác giả miền núi này “nói gì”. Vâng, những người thơ “chân đất” này - họ nói về chính họ. Qua các bài thơ đậm chất trữ tình, với ngôn ngữ giản dị - trong sáng, ý - tứ gọn và rõ, giọng điệu chân mộc, không mượn những mỹ từ hoặc phép tu từ nào để “bóng gió xa xôi” - họ đã kể, đã hát về đời mình, dân bản mình, quê hương biên ải của mình. Nếu họ “làm thơ đơn giản thế” thì là văn vần hoặc văn xuôi chứ, sao lại là thơ? Vâng, chính là thơ đấy. Tình - ý của họ được biểu lộ qua ngôn ngữ ngắn gọn nhưng nén, gợi chan chứa nỗi niềm, câu chữ đơn giản - mộc nhưng chân chất tình cảm, hình ảnh, nhịp điệu và âm thanh. Thơ của 3 tác giả được làm “như không ấy”. Đây là vấn đề văn hoá nền tảng, văn hoá vùng miền (mà ta hay gọi là bản sắc ấy mà), hay một sự đam mê thơ đến “xuất thần” được phát lộ qua năng khiếu và một chút tài văn... Đọc tập thơ "Đếm tuổi mùa đông", tôi được nhận ra thân phận Người của từng tác giả: đau - thương - điềm tĩnh và nhân hậu. Tác giả Phùng Cù Sân 60 tuổi, nguyên là cán bộ Tỉnh uỷ Lai Châu đã kể về mình: Năm vừa lên ba, con mất mẹ / Đứa em trai con mới biết bò Xác mẹ phủ chiếu manh / Giữa túp lều lạnh cóng... ...Rồi cán bộ đón con về ở / Mua cho quần áo, dép giầy Gửi con đi học nội trú / Đời con trang mới từ đây. - Bài Ơn Đảng Trên cương vị cán bộ tỉnh đi công tác, gặp cơn lũ, con người công dân, con người thi sỹ của tác giả đã bộc lộ nỗi sẻ chia của mình thật hơn người. Những nấm mồ la liệt / Như những mảnh chai khổng lồ Cứa nát thịt da tôi / Những hòn đá to khủng khiếp Như những trái bom càng / Đè nghiến thân tôi / Chân tôi bước Như bước trên lửa bỏng / Mắt tôi nhìn đớn đau vô vọng Ba mươi chín con người / Mới hôm qua thôi Họ còn ca hát / Họ còn gieo hạt... ...Anh muốn làm thay / Phần người đã khuất Anh muốn sẻ chia / Nỗi đau cùng cực /Bằng những gì Anh có được hôm nay... - Bài Cơn lũ đi qua Tác giả tâm sự với các chiến sỹ Bộ Đội Biên phòng: Ở quê hương anh bên luỹ tre xanh / Người vợ trẻ vẫn ngày đêm ngóng đợi ...Hình ảnh vợ con anh vẫn gặp trong mơ / Song điểm chốt cần anh có mặt Anh hiểu giá thiêng liêng từng tấc đất /Miền biên cương Tổ Quốc thân yêu. - Bài Thăm Đồn Biên phòng... Tác giả tâm sự với con gái: Con gái, con trai ơi! Con sinh ra chính nơi này Những tháng năm đất nước còn gian khổ Mái trường này nuôi dạy hai thế hệ / Cha và các con Dù mai đây có đi khắp muôn phương Các con ơi! hãy nhớ mãi mái trường Hãy tự hào mình đã lớn lên / Trong chiếc nôi Trường vùng cao yêu dấu. - Bài Chia tay trường phổ thông. Có những câu thơ ngấn lệ, đẹp và thương quý làm sao. Tác giả Phùng Cù Sân đã bày tỏ niềm thương yêu vợ bằng tấm lòng của một người chồng chân chính ở tuổi xế chiều. Nhẫn đeo trên ngón sao rơi? Phải đâu em đã quên lời thề xưa? ...Tóc phai mắt kém thân còm / Em cười cố giấu nỗi buồn xót xa Anh nhặt nhẫn giữa nền nhà / Rưng rưng nhớ ngón búp hoa năm nào Run run nhận nhẫn anh trao / Mắt cười lấp lánh ngàn sao dâng đầy Búp măng giờ đã héo gầy / Bao nhiêu thương nhớ chợt đầy trong anh. - Bài Chiếc nhẫn rơi. Tác giả Bùi Thị Sơn 53 tuổi, nguyên là cô giáo dạy văn, có lối tư duy thơ tươi mới - duyên dáng và quyết liệt. Chị đã nói được tâm sự mà nhiều người đàn bà khác phải quanh co. Với tư cách người vợ, chị đã kể được tâm tình mà nhiều người vợ khác kể không ra. Người thơ “đàn chị” này đáo để lắm - cái gì cũng biết, cũng muốn. Chị làm Thơ tình tặng chồng: Bởi em sinh ra là dành để cho anh Chàng mồ côi hiền chăm em đọc trong cổ tích Hiện ra trong đời này chính là anh / vầng trăng chỉ đêm rằm mới tỏ Chỉ có anh - em mới thật là em / Anh biết không đã có bao đêm Em lặng lẽ ngắm nhìn anh ngủ / Lặng lẽ hát ru những bài ca tình mẹ Thuở ấu thơ anh chẳng được mẹ ru... Được chồng yêu thương nhất mực, chị kể về chồng mình: Trai rừng / chẳng dễ dãi / trước những lời đầu môi chót lưỡi Trai rừng không có tuổi / từ lúc tóc còn xanh / đến khi đầu điểm bạc vẫn thích cười, thích hát / Trai rừng thích vợ mình là người tình đắm say mộc mạc / chẳng phấn son hào nhoáng mỹ miều Tôi yêu / Trai rừng. - Bài Trai rừng Khi chồng phải đi công tác xa, nữ nhà thơ miền núi nhớ chồng thật khác người. Mình phải cách xa nhau / Cái mũi thèm da thịt, mùi xạ hương Mình phải cách xa nhau / Cái lưỡi buồn nhớ ...Thôi! cứ chờ ngày mai / Dù rất nhiều ngày mai trôi qua nữa Anh trở về bên em / Bật thức các giác quan... - Bài Thầm nói với anh... Tác giả trẻ Phùng Hải Yến 25 tuổi là con gái của hai tác giả thơ Phùng Cù Sân và Bùi Thị Sơn. Hải Yến đã tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nay đang theo học lớp Viết Văn tại trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội. Cô thi sỹ trẻ lấy bút danh Tử Vân (làn mây tím) này tâm hồn đầy lãng mạn, trí tuệ tinh anh, tiếp thu được gien trội của cả bố và mẹ. Thơ của Tử Vân đã như làn mây thơ thới bỏ lại những ưu tư, những mặc cảm quê kiểng bay đi, toả mưa nơi những chân trời lạ. Cô đã nhắn với một chàng trai ở đâu đó, về một con đường nên đến: Chiếc khăn mây / Em dệt / vắt ngang núi chiều nay là đường chân trời gọi Tết về / nơi con dốc nhỏ trẻ em khúc khích phiên chợ vui / về chờ quà năm mới ...Chúm chím chồi non / bung nở / Điệu khèn bên núi Réo rắt gọi tình yêu / Tiếng giã gạo vang vang Trăng thẫn thờ rọi sáng / Cuối góc sàn Sơn nữ cất lời ca. - Bài Đường mây Nếu yêu thơ, yêu người Tây Bắc mà chưa lên Tây Bắc, chưa lên Lai Châu thì xin hãy hình dung qua lời thủ thỉ tâm tình của nhà thơ trẻ. Bàn tay người yêu rừng thắp mầm nắng Quên nốt sần chai ươm vạn vạn nhánh non... ...Từng chồi thông góp lên thành rừng thông Nhiều núi đồi xếp lên hình Tây Bắc Mỗi bàn tay nâng niu cây, yêu thương đất Kết nên tình quê hương. - Bài Cây thông quê tôi Xuất thân từ miền sơn cước, nhưng nữ sỹ trẻ đã đi nhiều nơi trên đường học tập và công tác. Nghe cô kể về một giấc ngủ nghiêng độc đáo nơi quần đảo Trường Sa đẹp đến nao lòng. Đọc đoạn thơ này, tôi như muốn cùng tác giả lướt sóng tới nơi ngàn trùng đảo xa, cùng chia sẻ những tháng ngày tuổi trẻ với những người Lính biển - dẫu rằng chịu đựng gian khổ là vô chừng. Cựa khẽ mình / Trường Sa nhoẻn cười mười tám Giấc mơ ấy hẳn đượm mùi gió biển / Vành môi trăng chênh chếch ... cùng ta! / Sẽ canh cho giấc ngủ nằm nghiêng mềm mại sau những cuồng giông, bão táp Sau những khát khao không dễ nói thành lời Sau những tuần tra trong màu áo của sóng Giấc ngủ nghiêng / Căng tròn... đẹp đẽ. - Bài Giấc ngủ nghiêng. Ra đảo gặp Lính biển, về quê nữ thi sỹ lại gặp Lính biên cương. Người lính hôm nay / “hát mãi khúc quân hành” Trái tim đập trong mạch nguồn sông núi lồng ngực Mẹ Đất / truyền sức cho những gót chân hướng đến / Đường xanh. - Bài Hành quân...
* * * “Không hẹn mà gặp” ba người trong một gia đình, thường ở 3 nơi, vậy mà mỗi khi trở về nhà là tâm trí mỗi người lại gặp nhau ở tình ruột thịt, tình quê hương và tầm suy nghĩ về số phận con người. Câu chuyện của mỗi ngày xa cách đã được biểu đạt vào thơ, thành thơ. Xin đọc Đếm tuổi mùa đông như một gặp gỡ thú vị để nhớ mãi. Hoá ra “vất vả một chút” - phải bươn bả bỏ qua nhiều tập thơ thường thường - ta sẽ gặp được những tập thơ, những gương mặt thơ thấp thoáng trong trẻo và thanh khiết đâu đó trên những nẻo đường xa xôi của đất nước. VT: 10/2010 K N Đ.
* Địa chỉ: Ngô Kim Đỉnh - Số nhà 2331 đường Hùng Vương Phường Nông Trang, TP. Việt Trì - Phú Thọ.
*Cả 2 mẹ con BTS và PHY(dưới tên khác) cùng đang là thành viên của Thi Viện. net
buithison chân thành cám ơn các thi sĩ Phương Liên, Mai Liễu, Kim Ngọc Đại đã có nhũng nhận xét ưu ái giành cho tập thơ ĐẾM TUỔI MÙA ĐÔNG; cám ơn anh Tùng Bách đã đồng cảm chuyển tải các bài phê bình của các nhà thơ trên lên chủ đề này. Bản thân tôi và hai người thân của tôi tự thấy mình còn nhiều hạn chế trong tập thơ in chung này; song cũng luôn tâm niệm: Thơ viết như là sự giải toả, thanh lọc chính mình, những gì mình chưa vươn tới thì phải phấn đấu để tiếp tục vươn tới... Riêng phần bình của giáo sư- thi sĩ Phương Liên Hà Dũng Tiến- đối với thơ của buithison đôi chỗ rơi vào chủ quan, võ đoán cá nhân. Anh PLHDT à, dù anh em mình quen nhau 30 năm rồi, nhưng có những điều anh viết về buithison chưa chuẩn xác đâu bởi đã hơn 3 năm nay, BTS chưa gặp anh, mà con người ta- cũng như vạn vật- luôn luôn biến đổi từng ngày... Ví như anh gặp BTS hôm nay sẽ không thể còn nhanh nhẹn, hồn nhiên, xông xáo...như hơn 3 năm về trước, em đã về hưu sớm khi sức khoẻ tuột phanh. Hẹn anh sẽ có ngày hội ngộ, trao đổi lại.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Lời ngỏ: Ngày Nhà báo việt Nam(21/6) đã qua, những gì đáng tôn vinh người làm báo, chúng ta đã làm. Thiết nghĩ, sau ngày này, chúng ta cũng nên cùng nhau thảo luận về những mặt trái nên tránh…
5 truyện ngắn ngắn +++++++++++++++++++++++++
1- KHÔNG PHẢI BẦỲ GÀ
Ngày 21/6 năm nay, trong những tác phẩm ảnh được chọn giải báo chí chất lượng cao của tỉnh, không thấy có tên tác giả trẻ Tiến Tăng - người săn ảnh nổi tiếng của Tòa soạn. Mọi người xôn xao hỏi nhau lý do. Tôi biết, nhưng không nói.. Hôm tôi cùng Tiến Tăng xuống bản Hon tác nghiệp đúng vào lúc bà con gặt lúa. Ngót chục đứa trẻ chừng 5, 6 tuổi má đỏ au, phúng phính quây quần quanh đống rơm tung rơm lên người nhau nom ngộ nghĩnh quá! Tiến Tăng chớp lia lịa mấy pô liền. Gật gù đầu ra chiều khoái trá , anh nói với lũ trẻ bằng tiếng Thái rồi mở túi lâý ra một gói kẹo tung vãi khắp xa xa. Lũ trẻ đứa cúi xuống nhặt kẹo, đứa đứng dâỵ cho kẹo vào túi nom cứ như đàn chim sẻ từ đâu sà xuống mổ thóc vậy. Tiến Tăng chớp máy liên tục, môi nở nụ cười mãn nguyện.Tôi chưa kịp phản ứng gì đã thấy một người đàn ông trung niên mặc áo chàm từ thửa ruộng gần đấy chạy tới, mặt bừng bừng tức giận. Ông ta túm cổ áo Tăng, thét lớn: -Mày là người xấu quá! Con chúng tao không phải con gà mà mày ném kẹo xuống đất cho chúng nó ăn như thế! Quay sang lũ trê, ông nhẹ nhàng nói một câu gì đó bằng tiếng Thái. Tất cả bọn trẻ móc hết kẹo trong túi quần, túi áo quẳng xuống đất...Hai đứa đã chót bóc kẹo cho vaò mồm cũng lè ra sạch. Suốt đường đi , Tăng không nói với tôi một câu nào. Tôi biết anh đang thầm yêu tôi mà chưa dám ngỏ…
2-AI ĐÁNG PHÊ BÌNH???!!!
Trong hội đồng chấm giải báo chí năm nay, tôi là người trẻ nhất...Tất cả mọi người đều nhất trí bức ảnh phê bình” Uống nước” của Nguyễn Hoàng- bạn thân của tôi đạt giải nhất vì đã nói lên được thực trạng trẻ em miền núi vẫn không bỏ được thói quen uống nước lã. Ba cậu bé cười thật tươi tranh nhau chụm miệng bên vòi nước bắc từ rừng ra… Thấy tôi không giơ tay biểu quyết, mọi người hỏi vì sao?Tôi nói: -Đây là cảnh dựng.Bịa đặt! Làm gì có chuyện trẻ mải uống nước mà mắt lại chăm chăm nhìn vào máy ảnh thế kia? Thấy tôi phân tích có lý, mọi người chấp nhận chọn bức ảnh khác của tác giả khác để trao giải. Tôi chủ động kể cho Hoàng nghe chuyện này. Cậu ấy gãi tai, đỏ mặt nói: -Thực tình, tớ đã nhìn thấy 3 đứa bé này đang chụm miệng uống nước lã. Vì bấm máy không kịp, chúng đã bỏ đi rồi. Tớ bèn gọi lai, cho mỗi đứa 10 ngàn để dựng lại cảnh trên. -???!!!
3- NGUYỄN DU LÀ AI?
Cái tin cu Thơ vừa tốt nghiệp trường Đaị học văn hóa Hà Nội lan ra khắp phố. Cô Nguyệt- mẹ cu Thơ mừng lắm! Suốt 23 năm âm thầm, tủi hờn nuôi con một mình hôm nay cô đã được đáp đền… Bà giáo Xuân hàng xóm– bạn thân của bà ngoại từ thuở tóc còn để chỏm sang chơi. Ngắm ảnh bà ngoại trên bàn thờ, bà Xuân rưng rưng nói: -Phải chi bà cháu sống được đến hôm nay…Lúc cháu còn nằm nôi, bà cháu thường mượn thơ Nguyễn Du để ru cháu ngủ đó! -Nguyễn Du là ai kia hở bà?
4-AI HƠN AI?
Năm ngoái, khu báo tập thể chỉ có hai chàng trai độc thân : Vĩnh đẹp trai, to cao, nhanh nhẹn; Hòa có đôi mắt thông minh, ngời sáng nhưng phooc người loắt choắt, thấp bé nhẹ cân…Năm nay, có thêm cô Liên vừa tốt nghiệp trường Đaị học báo chí tuyên truyền Hà Nội xinh như mộng. Lại thêm một người “góp gạo thổi cơm chung”. Những lúc rảnh rỗi, hai chàng vẫn ngồi trên chiếc ghế băng dài dưới bóng cây phượng vĩ đọc sách hay đàm đạo sự đời…Ý tình xem ra đã có phần khang khác… Trưa ấy, trong lúc Liên cặm cụi nấu cơm, hai chàng rủ nhau ra ghế băng chơi. Vĩnh chỉ bóng hai đứa tròn vo in xuống đất, bảo: -Hòa nhìn kìa, đầu tớ to hơn đầu cậu! Hòa gật đầu: - Đúng thế! Và chỉ tay ra phía xa xa, nơi con bò đang gặm cỏ: - …nhưng đầu cậu lại nhỏ hơn rất nhiều so với đầu con bò kia!
5- BÀI NHIỀU KỲ
Sau khi cưới nhau, Xuân - trưởng phòng biên tập và Vinh, phóng viên tờ báo của Thanh phố đã xây nhà hai mặt tiền ngay trung tâm thương mại. Các phóng viên A, B, C tụ tập bàn tán: - Sao chúng nó lắm tiền thế nhỉ?Nguồn nào đây? - Nguồn nào thì không biết, riêng nhuận bút cậu Vinh tháng nào chẳng gấp đôi, gấp ba bọn mình… - Mà sao suốt hai năm chúng nó yêu nhau, chẳng ai biết nhỉ? Bà chị Xuân tài thật! Đã ngoại tam tuần còn đánh gục cậu phóng viên trẻ măng, kém mình gần chục tuổi… - Bài cậu ta viết luôn có cái tít giật gân, câu khách…Chỉ khai thác mỗi đề tài mâu thuẫn gia đình, lẽ ra chỉ cần đưa tin ngắn gọn trong một kỳ, cậu ấy mổ xẻ phân tích thành 3 kỳ , ôm gọn nhuận bút hơn 2 triệu… - Cũng vì bà Xuân là em ruột Tổng biên tập thôi! Chẳng biết lấy nhau rồi, Xuân còn dám đăng bài nhiều kỳ cho chồng như trước nữa??? Lai Châu, ngày 26/6/2011. BTS
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Con đã về với núi vào một ngày hè nồng nàn mê đắm.Đèo Giang Ma ngàn mắt lá vẫy reo. Con đã về quê cha- mảnh đất Lai Chầu nghèo mà tình người luôn dạt dào ăm ắp. Nhớ lại hơn bốn năm về trước: Trên xe ca, cô bé con bật khóc- nhớ thầy cô, bè bạn, gia đình .Bố gượng đùa: “Khóc thế, mất xinh”.Mẹ quay đi, giấu hai giọt ngọc long lanh buồn xen lẫn niềm vui. Lần đầu tiên con được về xuôi. Học thêm cái chữ làm nhà báo. Lần đầu tiên cô con gái núi ước mơ mình chắp cánh bay xa…Mẹ dặn: “ Cố gắng học giỏi nha!”. Ươc mơ mẹ ấp iu một thuở, chẳng thành do sơ tán, chiến tranh. Như hạt đậu giấu mình trong lòng đất- tích tụ nhũng gì tinh túy nhất, cho chồi non con bật vươn cao. .. Con gái yêu! Mẹ rất đỗi tự hào- biết thời gian, trí lực con giành cho học hỏi…Để hôm nay, cầm trên tay tấm bằng loại giỏi cô thủ khoa háo hức trở về quê… Mẹ biết Hà Thành hoa lệ kia có sức hấp dẫn đến đê mê – những lôi kéo tràn trề ngực trẻ. Những cánh cửa tương lai rộng mở- thầy cô ưu ái giành cho con. Nếu chỉ vì “cái tôi” nhỏ bé, chẳng mấy ai trở lại núi chon von… Nhớ làm sao những con đường mòn lúp xúp ôm tròn eo lưng núi, lũ trẻ bản hiền như con dúi- đi học về lại theo mẹ vào hang. Ở núi, ánh nắng vàng cũng khác, ánh nắng như chan lẫn mật ong. Mỗi tia nắng tựa tia nhìn ấm áp, vương hương thơm, hơi thở núi nồng nàn. Căm giận sao những trận lũ dã man, giặc Thủy Tinh đột ngột tràn khắp bản, cuốn trôi bao nhà cửa, ruộng nương, xóa sạch những gương mặt hiền khô như đất . Thương làm sao những ngày đông giá rét, bé em chưa đủ áo che thân, những cùi tay tím bầm, tím ngắt, nằm nôi treo cho mẹ làm nương. Yêu làm sao những chàng trai cô gái, xung phong nơi hẻo lánh xa xôi, đem cái chữ, cái thuốc cho dân bản, xóa đói nghèo, cho sự sống sinh sôi.Phục làm sao những người cao tuổi- Gần đất xa trời vẫn sổng rất lạc quan, như cây cao tỏa bóng khắp non ngàn, sống mẫu mực, bảo ban lớp trẻ…Tự hào sao, Lai Châu vươn mạnh mẽ, xóa nhòa dần khỏang cách các vùng miền;gạn đục khơi trong bản sắc văn hóa riêng- Nỗi nhớ, thương, yêu, phục…kết liền, đọng trên môi thành lời khuyên của mẹ, tha thiết, dịu dàng và nhỏ nhẹ: về đi con, về với núi đi con! Dũng cảm lên! Vượt qua những lối mòn- con sẽ cùng bạn bè, đồng nghiệp nối nhịp cầu yêu thương tha thiết giữa Đảng và Nhà nước đến dân. Con sẽ đem tin tức xa gần cho người đọc hiểu thế giới xung quanh, có những quyết định sáng suốt nhất trước những vấn đề mới đặt ra.Những tin đưa phải nóng hổi, thật thà, phải bảo vệ quyền lợi dân con nhé ! Đường tương lai con trải rộng dài chân trời góc bể, đừng phút nào quên đất quê mình- phên dậu nơi biên cương Tổ Quốc. Bài học suốt cuộc đời con tác nghiệp là tiếng gọi thiêng liêng- tiếng gọi núi quê mình… Gái yêu ơi! Con không thể lãng quên!
Lai châu, 19/6/2011. BTS.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Tôi muốn viết... viết một bản tình ca, bài ca cất lên từ tiếng lòng sâu thẳm, khúc rạo rực cất lên từ tình yêu đối với thiên nhiên, với trần thế du dương trong điệu ly tao huyền diệu nơi thiên giới, mê say như tiếng sáo thiên thai vang từ những cánh đồng quê đến nơi Cung Quảng... Tôi muốn viết. Dù không phải là một nhạc sỹ.
Tôi muốn viết...viết một câu thơ! Câu thơ ngợi ca về cảnh vật, con người quê hương tôi. Bờ đê, mái rạ, đình làng, luỹ tre... thắm tươi hồn Việt. Này là những trang sử hào hùng âm vang sông núi; này là những chiến công hiển hách tạc lên dáng hình xứ sở- đất nước tôi. Đâu đây à ơi tiếng ru lòng mẹ...Mỗi câu thơ khắc chạm vào tâm trí, trái tim người đọc. Sống mãi với thời gian... Tôi muốn viết. Dù không phải là một thi nhân.
Tôi muốn viết...viết bằng cây bút: một bức tranh có cánh cò lặn lội trên đồng ruộng mênh mông; dáng mẹ gầy trĩu nặng bờ vai sờn đi vì mưa nắng. Mây trên trời vẫn trắng, nước dưới sông vẫn trong, nụ hoa dại tim tím. Bức tranh vẽ lên vẻ đẹp chân thực nhất từ cuộc sống, từ lao đọng sản xuất của nhân dân tôi, dân tộc tôi; tôi gửi gắm trong từng đường nét, mầu sắc là trái tim, là tâm hồn tôi đã được chiếu rọi qua lăng kính ánh mắt đến với bao người. Từ việc chiêm ngưỡng, thấu hiểu những điều kỳ diệu ấy xuyên qua thời đại bức tranh trở nên vĩnh hằng như tác phẩm tuyệt vời nhất. Tôi muốn viết. Viết bằng ngòi bút hội hoạ dù không phải là một hoạ sĩ.
Tôi muốn viết. Viết bằng ca từ thể hiện qua chuỗi âm thanh trong trẻo buổi sớm mai, khúc hát sẽ ngân lên những giai điệu ngọt ngào nhất. Qua những thăng âm, nốt nhạc trầm bổng, tôi truyền cho bạn phút giây nhẹ nhàng êm ái nghe như vị ngọt ngào của hương hoa. Âm nhạc kéo những tâm hồn đồng điệu sát lại gần nhau, vòng tay thân ái tình thương người gần gũi. Giọng ca ngân thánh thót- tiếng diệu kỳ chắt lọc từ sắc màu lung linh của cuộc sống. Tôi muốn viết. Bằng chính tiếng hát của mình dù không phải là một ca sỹ.
Tôi muốn viết thật nhiều, thật nhiều những xốn xang, say mê nồng nhiệt...nhưng trang văn chở nắng cho cuộc đời, tiếng ca và cả câu thơ thầm lặng. Không còn nữa những sáo rỗng, nhạt nhẽo, vô vị. Thay vào đó là bút pháp mới mẻ, độc đáo, đầy chất sáng tạo, sức sống của thế hệ tương lai. Từ những trang giấy mở ra trái tim tôi, tâm hồn tôi, luôn khát khao giao cảm với mọi người.
Bạn hỡi! Tôi đâu phải là một văn nhân, song tại sao lại không nhỉ? Những ước mơ có thể bay trên bầu trời nghệ thuật khi ta bạo dạn chắp đôi cánh thiên thần, tung mình vào cao xanh vô tận để tìm thấy ánh sáng... thứ ánh sáng của bầu nhiệt huyết chảy tràn trong trái tim nóng bỏng.
Tôi muốn viết không chỉ trong phút giây ngắn ngủi, không dễ lụi tàn như ngọn nến lay lắt trong gió đông, không phải một nhã thú nhất thời thoảng qua như mây... Và tôi sẽ viết...viết từ trong ngày hôm qua, buổi hôm nay và cả những sớm mai...Từ khi ánh dương lấp ló rạng đông đến lúc hoàng hôn khuất bóng...
Ước mơ của tôi đây bạn hỡi!
Yêu trả góp một kiếp người, anh ạ! Cũng sống rồi cũng chết cũng hư không...
Cho tôi một vé đi tuổi thơ Để lao vào lòng mẹ thảo nguyên mênh mang sinh ra tôi, nơi đoạn sông gầy nhom cong ngoằn như dấu ngã (~) quanh năm phủ sóng bờ tre. Chiều thả trâu về, những sợi khói bếp mỏng manh vươn lên, loãng ra, rách nát theo gió, làng xóm thanh thản trong nghèo khó. Tuổi thơ đã qua rồi hệt như nước dòng sông lặng lờ trôi không một lần quay trở lại. Đêm thảo nguyên đẹp và biến ảo lạ thường như lửa cháy trong bếp củi của mẹ, lửa gợi người ta suy tư, cũng có thể chính củi cháy thành tro gợi người ta suy tư, chả biết... Lần đầu ra biển tôi choáng ngộp giữa mênh mông. Lớn lên tôi so sánh mênh mông này với mông mênh khác, đối diện biển, trời rộng hơn nhiều. Cuộc đời lăn qua nhiều con dốc, gom mênh mông trời biển mới thấy biển trời còn bé hơn mênh mông lòng mẹ. Ở thảo nguyên, bà mẹ nào cũng dặn dò con gái lên tám: cấm không được rửa bát đĩa lúc trời xẩm tối, khi oan hồn đói khát đi nhiều, nghe tiếng bát đĩa va chạm, ngỡ có ăn uống họ đổ xô đến chờ chực thì tội nghiệp. Lời dặn mẹ đau đáu kiếp người...
Cho tôi một vé đi tuổi thơ Để nhìn trăng xuyên từ đám mây này sang đám mây khác. Không gian mênh mông, im lặng bát ngát. Ngắm trăng. Mình nhớ mình. Ngắm trăng. Mình quên mình. Nghe buồn hai con mắt, tôi ôm thảo nguyên quê hương cả trong những giấc mơ. Giấc mơ. Chuyện kể rằng: Hai vợ chồng nghèo xơ xác có đứa con trai lên tám kháu khỉnh. Đêm. Cả ba say ngủ trên chiếc giường ọp ẹp, chợt có tiếng chân người chạy giỡn trên mái nhà xiêu vẹo, chị vợ rón rén ra sân xem, thấy ông tiên sáng rực đang chơi trò thả diều trên nóc nhà. Thấy bị lộ, ông bay mất và nguyền rằng nếu tay chị vợ chạm vật gì đầu tiên vật ấy sẽ biến thành vàng. Chị ta hoảng hồn không tin vào mắt mình, chạy vào giường vồ lấy đứa con trai. Qua cơn hoảng loạn, chị nghe tay mình có cảm giác cứng ngắc, lạnh lẽo của kim loại. Căn nhà tối tăm lấp lánh ánh vàng từ người cậu bé. Từ đó họ hết nghèo vì ngày ngày hai vợ chồng tìm xẻo những chỗ không làm chết được con mình: xẻo tai, nhổ móng tay, chân, vặt tóc, lạn môi, xắt lưỡi. Than ôi, lòng tham con người là vô đáy, họ muốn tuyệt đỉnh giàu sang nên bán xác thằng bé. Nhưng thằng bé không chết, cuối cùng nó còn lại một trái tim người, khi họ tách cái xác vàng ra, trái tim nằm đó nhầy nhụa máu me, tươi rói, đập thoi thóp họ không biết phải làm sao với trái tim ấy? phải làm sao? làm sao? sao? trên thế gian xuất hiện hai kẻ tâm thần cứ mang một trái tim máu me đi khắp nơi và hỏi phải làm sao? Không gian im lặng. Xung quanh im lặng như những người nghe câu chuyện này bị buộc phải im lặng. Những câu chuyện thảo nguyên kể thâu đêm suốt sáng, dưới ánh lửa bập bùng, trong tấm chăn da cừu ấm sực, trên cánh đồng mùa vụ... tiếp nối ngày đêm không hết. Chuyện không viết bằng chữ mà kể bằng miệng, in vào tim óc, người thảo nguyên dặn mình sống cho hợp lẽ đời, làm điều thiện, gặt điều hay, tốt, tránh điều dữ, xấu
Cho tôi một vé đi tuổi thơ Chợt nhận ra giấc mơ nào cũng phù phiếm. Mơ mãi đâu khi hộ chiếu xin một vé đi thăm giấc mơ của mình cũng hết thời hạn rồi. Lòng muốn ngụp lặn trong những chuyện kể thâu đêm, nướng xiên thịt lợn rừng mềm sượt giữa bao la đồng cỏ. Lại nhắn nhau: nếu số phận chỉ cho ta một quả chanh, hãy lấy tấm lòng thành mà làm đường, gắng pha cho đời cốc nước chanh tuyệt diệu. Thế đấy, niềm vui đời nào có gì lớn, giản dị như một chum nắng, chói gắt nhưng dễ nhìn, hãy lội ngược dòng tìm vé đi tuổi thơ, tận hưởng nỗi khỏe khoắn của lạc thú điền viên. Huýt sáo một bài nhạc có nhịp điệu Fox nhanh, hay lắng tai nghe tiếng sáo chật ắp không gian...
Cho tôi một vé đi tuổi thơ
Đan Hạ
Yêu trả góp một kiếp người, anh ạ! Cũng sống rồi cũng chết cũng hư không...
Măng củ ngon phải là loại dày cùi, nhỏ mà săn chắc, cầm lên thấy nặng trịch. Búp măng tròn trĩnh như 2 bàn tay mũm mĩm chụm vào nhau.
Sau những cơn mưa hè, các mẹ, các chị thường đeo lu cở vào rừng đào măng. Lẩn khuất dưới thân tre, trúc thẳng đứng là những mầm tre mập mạp mới bật nhú khỏi mặt đất. Từ những đọt măng non ấy với sự khéo léo có thể chế biến thành nhiều món ăn đậm đà hương vị vùng cao.
Măng củ non được bóc bớt lớp vỏ ngoài, lộ ra lớp măng trắng ngần bên trong. Sau đó phần giữa củ măng được cắt thành từng miếng vuông vức luộc trên bếp củi. Khi ăn, miếng măng có vị rôn rốt, ngòn ngọt và đậm đà hương vị núi rừng. Phần ngọn măng được xắt miếng dài, mỏng để ngâm trong vại, sành, sứ (muốn măng có vị chua thì ngâm muối, măng có vị ngọt thì lọc nước tro để ngâm cùng). Các loại măng này có thể để được vài tháng, khi ăn mang ra nấu canh cá, canh gà rất ngon. Phần gốc củ măng sần sật cũng được tận dụng thái miếng, ngâm nước ấm cho khỏi he rồi gạn sạch nước, bỏ muối, ớt, cà dại vào ủ chung sẽ được lọ măng chua thơm ngon. Mỗi bữa ăn chủ nhà mang ra ít măng ớt chấm thịt ba chỉ, rau luộc. Ai ăn thử cũng phải xuýt xoa vì vị hăng hăng, cay nồng hấp dẫn thật khó chối từ...
Măng củ ngọt có thể chế biến ra nhiều món ăn vùng cao. Ngoài ra không thể không kể đến món măng xào với rau mùi tàu. Không chỉ sử dụng măng tươi, các gia đình còn bảo quản măng bằng cách bào mỏng măng củ rồi phơi khô cất đi để ăn dần.
Vừa chế biến măng, bà Đèo Thị Sớp vừa tâm sự: “Món đặc sản ngon nhất từ măng ngọt mà tôi thường đãi khách là món nộm măng gà. Làm món ăn này khá cầu kỳ: gà, măng luộc chín, xắt thớ nhỏ rồi vắt thêm chanh, đường, lá húng, cà trộn đều, trước khi ăn trộn thêm lạc rang. Mỗi mùa măng, tôi thường thu mua khá nhiều và chế biến để cả gia đình cùng thưởng thức bởi đây là món ăn mang nét đặc trưng của dân tộc Thái quê mình”.
Bên cạnh măng ngọt, măng đắng là món ăn thường ngày của người miền núi, cũng là món đặc sản du khách hay hỏi các nhà hàng khi đến với Tây Bắc. Cách làm măng đắng khá đơn giản: bóc bớt lớp vỏ ngoài của măng sau đó đổ nước sâm sấp các cây măng và luộc chín tới, chấm với chẩm chéo. Món ăn từ măng đắng chỉ giản đơn vậy, nhưng thực khách sẽ nhớ mãi hương vị là lạ - quà của núi.
Nếu có dịp đến Tây Bắc, khi dừng chân nơi bản nhỏ, ngồi quây quần quanh bếp lửa nướng măng trên than hồng, du khách mới cảm nhận rõ vị đắng, ngọt từ măng.
Hiểu rằng măng tre, nứa, sậy… gắn bó với người vùng cao không chỉ vì chúng là vật liệu làm nhà cửa, chuồng trại sản xuất, mà còn chắt chiu hương đất tạo nên vị núi rừng...
Yêu trả góp một kiếp người, anh ạ! Cũng sống rồi cũng chết cũng hư không...