Trang trong tổng số 55 trang (550 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Không quốc tế hóa Biển Đông là hỏng với Tầu khựa.
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Nguyễn Trung Anh đã viết:
Bất diệt-sức mạnh và niềm tin !

********
Mặc trời đông lòng ta bừng cháy ấm
Ánh mắt đăm chiêu -nhìn viễn cảnh quân thù
Trải lòng xuyên thấu -một niềm tin chắc chắn
Thấy lấp sóng biển vùi-lũ bành trướng xâm lăng!
Học giả Cao Tự Thanh có hai câu sau, tôi chép lại tặng bác:

黄沙誓

心鑄鐵鏈縴故島

魂爲怒浪到黄沙

Hoàng Sa thệ

Tâm chú thiết liên khiên cố đảo

Hồn vi nộ lãng đáo Hoàng Sa.


(Lòng đúc xích dài ràng hải đảo,

Hồn làm sóng giận tới Hoàng Sa).  
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

Chào mừng anh bộ đội cụ Hồ-nhân kỉ niệm 22-12-1944/22-12-2010!

CÁC ANH-MỘT QUÂN ĐỘI ANH HÙNG!
*********
66 năm chặng đường trôi qua đó
66 tuổi trưởng thành anh hùng dũng mãnh
Hiển hách chiến công-vang lừng khí phách
Trấn động địa cầu bất hủ những bài ca!
***
Cơ trí đa mưu-tướng tài quân nhuệ
Quyết trí đồng lòng bất tử hiên ngang
Trong bão táp đạn bom khói lửa
Bao phen kinh hoàng thất sắc lũ xâm lăng!
***
Vững chắc tay súng bám dân giữ đất
Kiên trung bất khuất trung Đảng hiếu dân
Khó khăn nào-không sờn lòng nản chí
Kẻ thù nào cũng hoá những thân ma!
***
Đội mưa giông bom đạn giữ biên cương!
Từng tấc đất quê hương,từng nẻo đường tổ quốc
Vành sao sáng lung linh ngời sắc thắm
Phấp phới bay cờ đỏ ánh sao vàng!
***
Hát về các anh,muôn lời ca bất diệt
Vững vàng trong binh lửa giữ bình yên
Luyện tập sẵn sàng trong bình yên cuộc sống
Đánh là thắng như trẻ tre mọi tình huống!
Chúc mừng các anh 66 tuổi anh hùng
Những người con một dân tộc anh hùng!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ẩn

Đinh Kim Phúc viết:
Giáo sư Nguyễn Huy Quý hãy nghe Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:

“Chúng tôi lẽ ra đã có thể giành được hơn nhiều, nhiều lắm. Chúng tôi đã thỏa thuận trước với người Trung Quốc về mọi vấn đề – nhưng Chu Ân Lai đã họp kín với Măng-đét Phrăng, và tất cả đều bị thay đổi. Nếu lúc đó chúng tôi cứ tiếp tục chiến tranh, thì có lẽ chúng tôi đã thắng và được tất cả. Phải nói rằng người Trung Quốc đóng một vai trò cực kỳ nguy hiểm trong suốt cuộc thương lượng, và đã phản bội chúng tôi một cách đê tiện nhất”.

Chúng tôi đã học được một bài học lớn qua những mưu đồ của Trung Quốc – trong những cuộc thương lượng ngoại giao, điều quyết định là phải nắm chắc mọi việc trong tay mình. Đừng để cho người khác can thiệp vào! Chỉ thương lượng vì lợi ích của chính mình – Chính vì vậy mà tại Hội nghị Pa-ri chúng tôi đã giữ vững quyền kiểm soát – điều này làm cho người Trung Quốc hết sức bất bình. Chúng tôi đã tiến hành chiến tranh và có đủ khả năng lập lại hòa bình, hoặc ít ra là bảo đảm cho mình một thế thắng trong trường hợp phải cần đến một vòng nữa trên trường đấu.

Một điều mà Trung Quốc và Ních-xơn, Kít-xinh-giơ đã thỏa thuận trong các cuộc hội đàm ở Bắc Kinh đều nhằm áp đặt các điều kiện, để lợi dụng các chiến thắng của chúng tôi trên chiến trường. Nhân dân Trung Quốc là bạn của chúng tôi, và mãi mãi sẽ là bạn của chúng tôi. Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã lợi dụng xương máu của chúng tôi vì lợi ích của chính họ; dùng hình hữu nghị Việt – Trung vào những mục đích bành trướng của chính họ.

Vì những sự phản bội ở Giơ-ne-vơ, cuộc đấu tranh của chúng tôi đã phải kéo dài thêm 20 năm; những kinh nghiệm của chúng tôi về quân sự, chính trị và ngoại giao đã chứng minh một điều: phải tuyệt đối độc lập. Đây là một thực tế sống đụng đến xương máu của chính mình”.(4)
Tham, sân, si
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ẩn

Taxi Maybach – Đường Sắt Cao Tốc và đống vỏ dừa Vinashin
Nguồn: http://boxitvn.wordpress....%8F-d%E1%BB%ABa-vinashin/


Tàu cá của ngư dân miền Trung bị đâm nát nơi biển cả nhưng với ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (Tổng bí thư nhiệm kỳ tới) thì “Biển Đông không có gì mới!”



Tham, sân, si
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ẩn

“Đường sắt cao tốc – Bài tẩy đã ngửa” và bài học không chỉ với Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng http://boxitvn.wordpress....%9bi-b%e1%bb%99-tr%c6%b0/

- Sự kiện “Thụy Điển đóng cửa Đại sứ quán tại Việt Nam” [1] vào ngày 22/12/2010 với lý do là… thiếu kinh phí (?!), nhưng đồng thời “Thụy Điển thành lập Đại sứ quán ở Campuchia” được RFA [2] đưa tin vào ngày 11/01/2011, tức là chưa đến một tháng sau đó, làm tất cả những ai còn lòng tự trọng dân tộc Việt không khỏi nhói lòng!

- Việc VN không tham gia lễ trao giải Nobel cho ông Lưu Hiểu Ba người TQ (tổ chức vào tối ngày 10/12/2010 tại thủ đô Oslo – Na Uy), được xem như là điểm khởi đầu cho “sự suy thoái niềm tin” đối với dân tộc VN trong sự nhìn nhận của bạn bè quốc tế. Phải chăng, ngoài những nỗ lực giúp nước ta chống tham nhũng trong những năm qua nhưng không được như mong muốn, thì đây là luận điểm cuối cùng để Thụy Điển quyết định đóng cửa Đại sứ quán tại nước ta vào 10 ngày sau đó?

- Hiện tại, Nhật Bản đang giúp ta “Tái khởi động nghiên cứu dự án đường sắt cao tốc” [3]. Người Nhật sẽ nghĩ gì khi “…việc lựa chọn đối tác vẫn còn bỏ ngỏ. Sau khi có báo cáo đầu tư rồi, chúng ta sẽ xem xét quốc gia nào, doanh nghiệp nào, nhà thầu nào đáp ứng tốt nhất điều kiện mình đề ra sẽ lựa chọn. Dự án này rất lớn, một quốc gia chưa chắc đã có thể hợp tác để làm hết. Thế thì phải nhiều quốc gia, nhiều nhà thầu. Còn bây giờ Nhật đang giúp mình trong việc chuẩn bị dự án”; và “Trung Quốc cũng không loại trừ. Vì trong đấy có nhiều dự án lắm, có thể nhiều nhà thầu của nhiều quốc gia cùng tham gia”, như lời ông Hồ Nghĩa Dũng? Nếu như ta nhớ lại một quan điểm “cứ thằng nào rẻ là ta chơi”… thì chắc chắn rằng, “mọi con đường đều dẫn đến Bắc Kinh” (?!). Và khi đó, người Nhật (giúp VN lập dự án bằng vốn không hoàn lại) sẽ là kẻ đứng ngoài cuộc trong trò chơi “trốn tìm” của người VN?

Tham, sân, si
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

Xuân cảm
***
Có những mảnh đời ta đã qua?
Có những khoảnh trời ta đã tới
Nhưng bao mảnh đời đang chới với
Bâng khuâng lạc lõng chốn xuân về?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Trung Quốc: Chi 22 triệu USD nghiên cứu Biển Đông



SGTT.VN - Cuộc gặp tại Thượng Hải trong hai ngày 26 và 27.1 vừa qua của các nhà hải dương học Trung Quốc, trong đó có cả Hoa kiều, tập trung thảo luận về dự án có tên nghiên cứu sâu ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông). Như tên gọi, dự án này tập trung nghiên cứu ở các vùng có diện tích khoảng 3,5 triệu cây số vuông và giới hạn tối đa độ sâu là 5,5km mà chính quyền Trung Quốc xem như thuộc quyền quản lý của họ.

http://sgtt.vn/ImageHandler.ashx?ImageID=132364
Trung Quốc là nước thứ năm trên thế giới có khả năng chế tạo tàu lặn sâu hơn 3,5km. Trong ảnh: một tàu lặn đang được đóng mới. Ảnh: THX



Dự án do nhà nghiên cứu Wang Pinxian, một nhà khoa học cao niên ở Trung Quốc thuộc đại học Tongji ở Thượng Hải chủ trì. Nhóm nghiên cứu có thể sử dụng tàu lặn chuyên dụng Jiaolong có khả năng lặn tới độ sâu 7km. Tháng bảy năm ngoái, tàu này đã lặn tới độ sâu 3,8km. Dự kiến năm nay, họ sẽ thử nghiệm tàu này ở độ sâu 5km và đạt mục tiêu thiết kế trong năm tới.

Các nhà nghiên cứu cho rằng dự án nghiên cứu Biển Đông hình thành sau khi có cuộc nghiên cứu do tàu Dayang Yihao thực hiện năm 2007 ở một vùng ít được biết đến có tên gọi rặng Tây Nam Ấn Độ. Các nhà khoa học trên tàu Dayang Yihao đã phát hiện ra các vỉa quặng đồng, chì và kẽm. Điều đáng chú ý, ngay sau khi uỷ ban quốc tế về thềm lục địa ban hành quy định về quyền khai thác mỏ ở đại dương, phía Trung Quốc lập tức nộp đơn để khai thác.

Từng tham gia nghiên cứu trên tàu Dayang Yihao, nhà hải dương học Lin Jian thuộc viện hải dương học Woods Hole ở Massachusetts, đang đứng đầu một tiểu dự án nằm trong dự án nghiên cứu Biển Đông lần này để nghiên cứu về sự kiến tạo lục địa ở Biển Đông. Điều này sẽ giúp lý giải sự hình thành của biển, cấu trúc bề mặt đáy biển. Phần thứ hai của dự án là nghiên cứu trầm tích đáy biển và khí hậu cổ đại, tiếp nối nghiên cứu năm 1999 của tiến sĩ Wang cũng ở khu vực này. Bất chấp những tranh cãi về chủ quyền, kết quả nghiên cứu sẽ thu hút sự chú ý của giới công nghiệp dầu khí.

Nhà khoa học Jian Zhimin (đại học Tongji) và các đồng nghiệp hy vọng từ kết quả nghiên cứu trầm tích sẽ đọc lại được diễn biến của nhiệt độ, lượng mưa cũng như mực nước biển trong quá khứ. Qua đó, họ có thể hiểu thêm về khí hậu châu Á gió mùa. Các nhà khoa học cũng nghiên cứu về dòng hải lưu nóng Tây Thái Bình Dương, với nhiệt độ trung bình 290C. Người ta cho rằng, dòng hải lưu này ảnh hưởng tới gió mùa và hiện tượng El Nino ở Thái Bình Dương.

Phần thứ ba của dự án nghiên cứu về sinh vật học, đặc biệt là các sinh vật dưới sâu, do các nhà khoa học trong đó có Jiao Nianzhi (đại học Xiamen ở tỉnh Fujian) và Tian Jiwei, đại học hải dương Trung Quốc ở Qingdao, tỉnh Shandong.

Tổng kinh phí dự án khoảng 22 triệu USD được quỹ Quốc gia về khoa học tự nhiên phân bổ trong tám năm. Đây không phải là đơn vị duy nhất ở Trung Quốc nghiên cứu về hải dương học. Dự kiến, Trung Quốc sẽ đầu tư khoảng 60 triệu USD để xây trung tâm công nghệ biển sâu và hệ thống quan sát bề mặt đáy biển có kinh phí lên tới 1,4 tỉ nhân dân tệ.

Phủ nhận ý định nghiên cứu nhằm phục vụ việc mở rộng lãnh thổ, các nhà khoa học của Trung Quốc khẳng định mục đích nghiên cứu nhằm phục vụ sự hiểu biết của con người. Họ cũng cho rằng, dự án tập trung vào các vấn đề cơ bản về khoa học hơn là tìm kiếm dầu hay khoáng sản. Điều này không có gì sai, cũng như nó đúng với nhiều người đi biển dưới sự bảo trợ của hải quân Hoàng gia Anh, thời nước này tung hoành trên biển trong các thế kỷ trước. Nếu các nhà hải dương học Trung Quốc là những người đầu tiên khám phá bí ẩn của vùng biển Tây Nam nước này, các doanh nghiệp Trung Quốc tất yếu có lợi thế hơn để biến những tri thức này thành lợi thế thương mại và hải quân Trung Quốc sẽ có những lợi thế nhất định để bảo vệ các quyền lợi biển. Chính vì vậy khi đưa tin về dự án này, tờ Economist đã ví việc đặt tên gọi và quy mô dự án của Trung Quốc như đế chế La Mã từng làm khi gọi Địa Trung Hải bằng tên Mare Nostrum, có nghĩa là biển của chúng ta.

Phi Giao (Theo "The Economist")
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

Các bằng chứng lịch sử, đặc biệt là pháp lý cho thấy chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.

LTS: Ngày 19/1/2011, mạng Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung Quốc (www.scio.gov.cn) đăng tin dưới dạng sự kiện về việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam với nội dung như sau: "Ngày 19/1/1974, quân và dân quần đảo Tây Sa của ta (Trung Quốc) tiến hành tự vệ phản kích nguỵ quân miền Nam Việt Nam - kẻ đã liên tục xâm phạm lãnh hải, không phận, cướp chiếm các đảo và gây thương vong cho ngư dân ta, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ".

Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam cung cấp thêm một tư liệu khẳng định các bằng chứng lịch sử và pháp lý không thể tranh cãi chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.


>> http://editor.tuanvietnam...ang-sa-1974">Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974


Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình.

Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.

 

Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn[1] mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".

 

Trong Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.[2]

Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi.

 

"Xã An Vĩnh,[3] huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi[4] gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm[5] có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải".

"... Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.

Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được".

Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày nay, có thể kể tờ sai sau đây đề năm 1786 của quan Thượng tướng công:

"Sai cai Hội Đức Hầu đội Hoàng Sa dẫn bốn chiếc thuyền câu vượt biển đến thẳng Hoàng Sa và các cù lao trên biển thu lượm đồ vàng bạc, đồ đồng và đại bác, tiểu bác,[6] đồi mồi, hải ba cùng cá quý mang về kinh đô dâng nộp theo lệ".

Giám mục J.L.Taberd, trong bài "Ghi chép về địa lý nước Cochinchine" xuất bản năm 1837, cũng mô tả "Pracel hay Paracels" là phần lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay Paracels là "Cát Vàng".[7] Trong An Nam đại quốc hoạ đồ xuất bản năm 1838, ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi "Paracel hay Cát Vàng" (Paracel seu Cát Vàng) ở ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay[8].

 

Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ nước Việt Nam đời Nguyễn vẽ vào khoảng năm 1838, ghi "Hoàng Sa" (số 1) - "Vạn lý Trường Sa" (số 2) thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam.

 
Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý Việt Nam do Quốc Sử quán nhà Nguyễn (1802-1845) soạn xong năm 1882[9] ghi Hoàng Sa là bộ phận lãnh thổ Việt Nam tại tỉnh Quảng Ngãi.   
Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Ngãi, cuốn sách viết:
"Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức đảo Hoàng Sa liền cát với biển làm hào; phía tây nam miền sơn man, có luỹ dài vững vàng, phía nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới hạn..."

"... Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam còn có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ "Vạn lý Ba Bình" (muôn dặm sóng yên). Cồn cát này xưa gọi là Phật Tự Sơn, phía đông và phía tây đảo đều có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai thuyền công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2.000 cân".

Nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây trong những thế kỷ trước đều xác nhận Hoàng Sa (Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Một giáo sĩ Phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701 viết trong một lá thư rằng: "Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam.[10]

J.B. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long, năm 1820 đã viết trong phần chú bổ sung vào cuốn Hồi ký về nước Cochinchine[11]:

"Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh[12]... một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và quần đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp thành...".[13]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trung Anh

( Tiếp theo):
Trong bài Địa lý vương quốc Cochinchina[14] của Gutzlaff, xuất bản năm 1849 có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là "Cát Vàng".

Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa hành và tài nguyên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các cuộc khảo sát đó.

Trong Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỷ XVII):

"Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm[15] đến cửa Sa Vinh[16] mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy, ... có gió Đông Bắc thì thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả, hàng hoá thì đều để lại ở nơi đó".[17]

"Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".

Đại Nam thực lục tiền biên, bộ sử về chúa Nguyễn do Quốc sứ quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1844, có đoạn viết:

"Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài biển, có hơn 130 bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích v.v...".

"Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản".

Theo Đại Nam thực lục chính biên, là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn soạn, viết về các đời vua nhà Nguyễn. Phần viết về các đời vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị được soạn xong năm 1848, ghi sự kiện Gia Long chiếm hữu các đảo Hoàng Sa năm 1816, sự kiện Minh Mệnh cho xây miếu, dựng bia trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các đảo này [18].

Quyển 52:

"Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816)...

Vua phái Thuỷ quân và đội Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thuỷ".

Quyển 104:

"Tháng tám mùa thu năm Quý Tỵ, Minh Mệnh thứ 14 (1833)...

Vua bảo Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mảnh, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời".

Quyển 154:

"Tháng sáu mùa hạ năm Ất Mùi, Minh Mệnh thứ 16 (1835)... dựng đền thờ thần (ở đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi, Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ "Vạn Lý Ba Bình"[19]. Cồn Bạch Sa chu vi 1.070 trượng, tên cũ là Phật Tự Sơn, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than Thạch. Năm ngoái vua toan dụng miếu, lập bia ở chỗ ấy, nhưng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới sai cai đội thuỷ quân Phạm Văn Nguyên đem lính và Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về".

Quyển 165:

"Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1...

Bộ Công tâu: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, xin phái thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa, không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào; khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thể hiểm trở, binh dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào đường đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy, trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình".

"Vua y lời tâu, phái Suất đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ "Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ").

 
 
 
 
 
 

Cũng trong Đại Nam thực lục chính biên có ghi, năm 1847 Bộ Công đệ trình lên vua Thiệu Trị tờ Tâu, trong đó có viết: Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta. Theo lệ hàng năm có phái binh thuyền ra xem xét thông thuộc đường biển. Năm nay bận nhiều công việc xin hoãn đến năm sau. Vua Thiệu Trị đã phê: "Đình".

 

Trong Đại Nam nhất thống chí (1882):

"Đảo Hoàng Sa: ở phía Đông cù lao Ré huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có đến hơn một trăm ba mươi đảo nhỏ, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm tục gọi là Vạn lý Trường Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không biết cơ man nào. Sản xuất nhiều hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích... Hoá vật của các tầu thuyền bị nạn bão trôi giạt ở đấy".

Các sách khác thời Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) cũng mô tả Hoàng Sa một cách tương tự.

Do đặc điểm của Hoàng Sa và Trường Sa là có nhiều hải sản quý lại có nhiều hoá vật của tàu bị đắm như trên đã nói, Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ. Nhiều sách lịch sử và địa lý cổ của Việt Nam đã nói rõ tổ chức, phương thức hoạt động của các đội Hoàng Sa có nhiệm vụ làm việc khai thác đó.

Kế tiếp các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn phải liên tiếp đối phó với sự xâm lược của nhà Thanh và của Xiêm, tuy vậy vẫn luôn luôn quan tâm đến việc duy trì và sử dụng các đội Hoàng Sa.

Nghĩa là thời Tây Sơn, Nhà nước vẫn tiếp tục tổ chức việc thai thác Hoàng Sa với ý thức thực hiện chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa.

Từ khi nắm chính quyền năm 1802 đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đội Hoàng Sa, sau được tăng cường thêm đội Bắc Hải, được duy trì và hoạt động liên tục từ thời các chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn (1802-1945).

Như vậy qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây nói trên từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự có mặt đều đặn của các đội Hoàng Sa do Nhà nước thành lập trên hai quần đảo đó mỗi năm từ 5 đến 6 tháng để hoàn thành một nhiệm vụ do Nhà nước giao tự nó đã là một bằng chứng đanh thép về việc Nhà nước Việt Nam thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó. Việc chiếm hữu và khai thác đó của Nhà nước Việt Nam không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác; điều đó càng chứng tỏ từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã là lãnh thổ Việt  Nam.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 55 trang (550 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] ... ›Trang sau »Trang cuối