3 năm rưỡi ở tù và 2 lần trốn trại bất thành
Tác giả: Hoàng Sang - Vũ Thành
Bài đã được xuất bản.: 10/11/2009 06:30 GMT+7
Người lính Hải quân cưỡi sóng trong chiến dịch Chủ quyền 88
Hành trình truy tìm ký ức của một chiến sĩ Hải quân
9 "tù nhân" bị giam 3 năm, năm tháng, 15 ngày ở cái nơi mà Phạm Văn Nhân từng gọi là "địa ngục trần gian". Khát vọng tự do đã thôi thúc anh vượt ngục. Có lúc cánh cửa tự do tưởng như mở toang trước mặt anh nhưng rồi lại đóng sầm một cách tàn nhẫn.
Trại tù Thu Dung, 1988
Sau khi bị bắt lên tàu Trung Quốc, Nhân và các đồng đội được canh chừng cẩn mật. Lúc nào cũng có 2 người lính bồng súng kè kè đứng bên cạnh. Hôm sau, toàn bộ số "tù nhân" này bị bịt mặt để không xác định được phương hướng đi.
Anh Nhân với những ký ức về trận hải chiến năm 1988 và những ngày bị bắt giam tại TQ
Sau 3 ngày lênh đênh trên biển, không nước, không thức ăn, Nhân và các đồng đội được đưa đến một nơi. "Lúc đó chắc là khoảng 12 giờ trưa gì đó, trời rất nắng. Tôi đoán như vậy vì thấy bàn chân bỏng rát. Lính Trung Quốc dẫn chúng tôi lên trên một hòn đảo. Lúc này, tôi và các đồng đội đã thấm mệt. Phần vì vết thương vẫn rỉ máu, phần vì 3 ngày không được ăn uống gì cả nên tất cả lả đi. Chịu không nổi, tôi nói: Muốn chém, muốn giết thì mặc, không nên hành hạ chúng tôi như thế", anh Nhân nhớ lại.
Người lính năm xưa kể tiếp: Một lúc sau, lính Trung Quốc tháo vải bịt mặt và đưa chúng tôi vào một phòng ăn. Một người trong nhóm còn cười và nói: "Chắc là chúng chuẩn bị giết mình rồi thì phải. Trước lúc bắn, bao giờ cũng được ăn một bữa cơm mà".
Mặc dù đã 4 ngày không được một hạt cơm nào vào bụng nhưng anh em kiên quyết không ăn và gạt đổ hết thức ăn trên bàn. 4 người lính bồng súng vội hô hào và gô cổ chúng tôi lại. Sau khi bẻ quặp tay ra phía sau, bọn họ lại bị bịt kín mắt và đưa chúng tôi lên tàu đi tiếp. Đến chập tối, tàu cập bến, chúng tôi bị đẩy lên một chiếc ô tô bịt kín".
Sau khi vết thương đã lành, anh Nhân và đồng đội được đưa về trại Thu Dung, bán đảo Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông.
Tại đây, 9 chiến sỹ Hải quân Việt Nam bị nhốt riêng mỗi người một phòng. Ngày 2 bữa, họ được phát khi thì một ít cơm đã mốc cùng với một ít ngọn rau dài loằng ngoằng, vàng khè, lúc thì một chiếc bánh bao không nhân... Tất cả 9 chiến sỹ hải quân Việt Nam đều được hứa: Vài bữa nữa sẽ được thả về Việt Nam.
Nhưng rồi, 1 tháng, 2 tháng, 1 năm...., mấy anh em vẫn bị nhốt kín giữa bốn bức tường. Muốn nhìn ra ngoài chỉ có cách nheo mắt qua một lỗ thủng bé tin hin nơi cánh cửa sổ.
Sau một thời gian, anh Nhân được nhốt chung với anh Hùng và anh Dũng. Đêm đến, cả 3 người không ai ngủ được, suy nghĩ mông lung. Bất giác, Nhân quay sang hỏi anh em: Không biết Trường Sa giờ thế nào rồi nhỉ, không biết hòn đảo Cô Lin, Gạc Ma... - nhân chứng sống cho những người lính Hải quân Việt Nam kiên cường mà bất khuất giờ thế nào?
Bồi hồi nhớ lại, anh kể: "Những ngày ở tù, anh em ở đây chỉ nhớ đến gia đình và Trường Sa mà thôi - nhớ gia diết, nhớ đến quặn lòng. Rồi anh nung nấu quyết định vượt ngục, để trở về bên gia đình, để lại cưỡi sóng, đạp gió ra với Trường Sa, và để kể cho những người thân của anh về Trường Sa hùng vĩ, hiên ngang giữa mịt mù sóng biển.
Rồi anh Nhân mường tượng đến giây phút những người lính đi trên tàu 604 cưỡi sóng vượt trùng dương để cắm cờ trên hòn đảo thân thương của Tổ quốc. Mệt quá, cả ba thiếp đi mang theo cả giấc mơ về lá cờ đỏ sao vàng năm cánh ngạo nghễ bay phần phật giữa biển trời".
2 lần vượt ngục không thành
Ông Phạm Văn Nguyên - bố anh Nhân rơi nước mắt khi nghĩ rằng đứa con mình đã hy sinh trong chiến dịch CQ 88
Sau khoảng 2 năm bị nhốt, nếm đủ mọi cay đắng về cuộc sống mất tự do, Nhân nung nấu ý định vượt ngục. Anh bảo: "Cứ sống thế này thì thà rồi chết quách cho xong. Cứ thử vượt ngục, biết đâu may mắn sẽ trốn thoát". Và rồi, Nhân nói với anh em kế hoạch trốn trại".
Anh em nghe xong, người thì im lặng, người thì can ngăn:"Họ canh chừng cẩn mật thế này, trốn không được đâu. Lỡ bị bắt lại thì chỉ có chết."
Can ngăn mãi không được, mọi người quay sang bàn phương án cho anh vượt ngục và khuyên anh nên trốn về Việt Nam theo đường biên giới Việt - Trung.
Đêm trước lúc Nhân trốn trại, mọi người còn nhắn nhủ: "Nếu trốn được về Việt Nam, nhớ báo tin cho gia đình là chúng tôi vẫn còn sống. Còn nữa, nhớ báo với đồng đội là anh em bên này vẫn một lòng kiên trung với Tổ quốc".
Nhân bồi hồi nhớ lại đêm trước lúc vượt ngục: "Trong số anh em chúng tôi, chỉ có anh Phụng là đã có vợ. Vợ anh tên là Thiêm thì phải. Nhìn anh nắm chặt tay tôi căn dặn: nếu về đến Việt Nam, nhớ báo tin cho cô ấy là tôi vẫn an toàn, tôi hiểu nỗi lòng của đồng đội".
Từ lúc các anh bị bắt đến giờ, gia đình, người thân chắc là đã khóc hết nước mắt vì cho rằng các anh đã hy sinh. Hơn 2 năm trời đằng đẵng, bặt vô âm tín, bố và các anh chị em của Nhân ở nhà chắc cũng đứt từng khúc ruột khi cho rằng anh đã nằm lại giữa biển khơi để bảo vệ chủ quyền cho Tổ quốc.
Đêm. Qua ánh đèn điện vàng vọt, Nhân vẫn nhìn rõ 1 người lính gác Trung Quốc cầm súng đi đi, đi lại. Lợi dụng sở hở, anh nhảy từ tầng 2 xuống tầng 1. Có tiếng động, Nhân lại nằm rạp xuống khe nước hôi thối. Sau khi bò qua dãy nhà bếp và ao cá, anh leo qua tường thép gai và trốn được ra ngoài.
Nhân chạy thục mạng trong bóng đêm và ra đến đường nhựa.
Đêm tĩnh mịch, chợt có tiếng động cơ và ánh đèn phát sáng. Nhân vội khuân đá ném lên lòng đường rồi núp vào lùm cây. Tiếng động cơ mỗi lúc một gần. Gặp vật cản, chiếc xe ô tô đi chậm lại. Lợi dụng lúc ô tô giảm tốc độ, anh nhảy lên xe.
Gần sáng, xe dừng bánh. Sợ bị lộ, anh nhảy ra khỏi xe và trốn vào rẫy ven đường rồi ẩn nấp ở đó, chờ cho trời tối mới dám đi tiếp.
Tối, bắt gặp một chiếc xe đạp bỏ quên bên vệ đường, Nhân lấy và lại tiêp tục hành trình tìm đường về Tổ quốc.
Nhân nhớ lại: "Ngày đó, ban ngày tôi lẩn trốn vào nương rẫy, hái hoa quả ăn lót dạ. Đêm, khi không có người lại lên xe đạp mò mẫm tìm đường. Sau này bị bắt lại, tôi mới biết mình đã đi được hơn 1 ngàn km, chỉ còn khoảng 600km nữa là về đến Việt Nam".
Ngày thứ 13 vượt ngục, lúc này phía Trung Quốc đã phát "lệnh truy nã" anh trên ti vi. Đồng đội của anh thì cho rằng là Nhân đã trốn được về Việt Nam. Chẳng ai ngờ, đến ngày thứ 14 thì đã thấy lính Trung Quốc dẫn anh về trại Thu Dung.
Giọng anh đứt quãng: "Hôm đó là chập tối ngày thứ 13, tôi lọ mọ vào quán ven đường để mua một ít bánh thì bị phát hiện. Người dân nhận ra tôi trên ti vi theo "lệnh truy nã" của chính quyền Trung Quốc nên đã hô hào bắt lấy. Tối đó, tôi lại bị bắt giam".
Sau khi bị bắt, anh lại tiếp tục nung nấu ý định vượt ngục. Anh dùng mấy dây đàn ghi ta bị đứt để cắt song cửa sắt nhưng bị phát hiện. Không nản, anh lại trèo tường xuống tầng 1, lợi dụng lính canh lơ là vượt tường thép kẽm ra ngoài. Tuy nhiên, do đã nằm trong "tầm ngắm" từ trước nên anh chưa kịp thoát ra ngoài trại thì đã bị bắt.
Sau 2 lần bị bắt, lính canh đã dành cho anh một "chế độ" canh phòng nghiêm ngặt, lúc nào cũng có một tốp theo dõi anh 24/24.
Tổng cộng, những người lính Việt Nam đã bị giam ở Trung Quốc 3 năm, 5 tháng, 15 ngày. Đến ngày 2/9/1991, toàn bộ 9 chiến sỹ được trao trả tại Lạng Sơn.
Đồng đội tôi, ai còn, ai mất
Ngôi nhà này trước la mảnh đất 4m2 mà bố anh để lại cho anh
từ thời ông còn làm ngề canh cống cho xã. Sau khi anh lấy vợ,
vì không có chỗ ở nên bố anh giao lại cho anh. Năm 2001, anh gop góp ít tiền để sửa lại.
Mảnh đất không có sổ đỏ ngay cạnh cống thủy lợi xã là nơi mà cả gia đình anh sinh sống hiện giờ.
Rời quân ngũ, Nhân trở về quê và xây dựng gia đình. Nhưng cũng chỉ vài tháng sau ngày cưới, do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, Nhân quyết định để lại người vợ mới cưới theo bạn bè đi đến Quảng Ninh làm nghề đội than thuê.
Tích lũy được một ít vốn anh lại trở về quê hương lập nghiệp. Anh vay mượn thêm của anh em, hàng xóm để chăn nuôi vịt. Đang làm ăn ra lại đúng cái đợt đại dịch H5N1. Đàn vịt hơn 300 con của gia đình bị mang đi tiêu hủy.
Tay trắng, muốn làm lại từ đầu cũng không có vốn. Mảnh đất mà vợ chồng anh chui ra chui vào thì không có sổ đỏ, muốn cầm cố vay mượn ngân hàng cũng khó.
Trước, bố anh làm nghề canh cống thủy nông cho xã nên dựng tạm một cái lều để tiện cho việc trông coi. Sau này ông già, nghề trông cống thủy lợi lại được giao lại cho anh, căn lều 4m2 ngày xưa mà ông ở cũng được giao lại cho 2 vợ chồng Nhân sau khi anh cưới vợ. Mãi đến năm 2001, anh em, họ hàng gop góp cho anh ít tiền để xây tạm cái nhà cho anh và 2 con có chỗ chui ra chui vào lúc mưa nắng.
"Mà thôi, thế còn sướng chán. Còn gấp hàng ngàn lần hồi bị bắt giam bên Trung Quốc ấy chứ. Tôi chỉ mong làm đủ tiền để nuôi 2 đứa con ăn học. Còn dư dả đồng nào thì góp lại để mong một lần được gặp lại anh em đồng đội cũ. Gần 20 năm sau ngày được trả tự do, tôi vẫn chưa có cơ hội gặp lại mọi người, chẳng biết ai còn, ai mất nữa cả" - Nhân cười mãn nguyện khi nói về ước mơ của mình.
Với anh, hạnh phúc bây giờ là được nhìn thấy 2 con khôn lớn; được gặp lại đồng đội cũ để ôn lại những ký niệm đã qua rồi cùng nhau thăm lại Trường Sa, thăm lại hòn đảo mà ngày xưa anh đã từng chiến đấu, được nhìn thấy ngọn cờ thắm máu cha ông sừng sững bay giữa biển trời.
Bài này hoa cỏ copy từ TuanVietNam.net nhưng không biết copy ảnh- để mọi người cùng đọc và hiểu hơn về vùng biển đảo yêu dấu của chúng ta.Tôi yêu cuộc sống hôm nay
Bởi trong tôi có những ngày hôm qua...