Trang trong tổng số 14 trang (132 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

"Cánh đồng bất tận" bị kiểm điểm phê phán


http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/CnhngbttnNgNgcT.jpg

Trang bìa cuốn "Cánh đồng bất tận".


Ban tuyên giáo tỉnh ủy Cà Mau đã có văn bản chính thức đề nghị Hội Văn học nghệ thuật tỉnh phê phán nghiêm khắc nhà văn Nguyễn Ngọc Tư - tác giả truyện dài "Cánh đồng bất tận”.Dưới đây là ý kiến của một số nhà văn và độc giả xung quanh sự việc này

Bà Đỗ Tuyết Mai - ủy viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cà Mau, ủy viên ban biên tập tạp chí Bán đảo Cà Mau nơi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đang công tác - nêu ý kiến về vấn đề này: "Cơ quan rất ủng hộ tác phẩm Cánh đồng bất tận của Ngọc Tư. Việc tiến hành kiểm điểm theo đề nghị của Ban tuyên giáo tỉnh ủy diễn ra nhẹ nhàng.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng đã tiếp thu ý kiến phê bình. Riêng cá nhân tôi, tôi thấy tác phẩm Cánh đồng bất tận xúc động và mang tính nhân văn cao".
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng, một tác phẩm khi đến với độc giả mà gây được ý kiến, dư luận đánh giá, nhận xét nhiều chiều, thậm chí trái ngược nhau là điều bình thường. Tác phẩm khi ra đời mà nhận toàn ý kiến khen ngợi cũng là một hiểm họa cho nhà văn. Điều đáng sợ nhất chính là một tác phẩm chìm nghỉm, viết ra không ai thèm ngó ngàng tới. "Trong tình huống này, tôi nghĩ một nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư cần bình tĩnh lắng nghe các ý kiến khác nhau, để phân tích, suy nghĩ tìm đường đi cho mình. Thời gian và độc giả sẽ chứng minh giá trị của tác phẩm nằm ở đâu. Riêng tôi, tôi luôn thích tác phẩm này", ông nói.
Nhà văn Dạ Ngân phát biểu: "Theo tôi, đáng lẽ chúng ta phải mừng vì ở tận cùng đất nước, ở miền đất xa xôi ấy có một cây bút nữ như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi luôn cho rằng văn học Nam Bộ mà có Nguyễn Ngọc Tư là cao thêm mấy tấc nữa rồi".
Dạ Ngân kể, truyện Cánh đồng bất tận do Nguyễn Ngọc Tư viết ra và gửi đầu tiên cho tuần báo Văn Nghệ. Khi đó chị, nhà văn Trung Trung Đỉnh và nhà văn Hữu Thỉnh đọc thấy rất thú vị, đọc xong rồi đăng dài kỳ trên Văn Nghệ luôn mà không cần phải sửa một câu, một chữ nào cả.
"Những gì Tư viết theo tôi là rất hay, rất thực. Tôi ở Hậu Giang, cũng gần Cà Mau chứ đâu xa, có lần về đám cưới ở dưới ấy nghe mấy bà chị kể chuyện mà cười ra nước mắt: Bây giờ con trai, con gái vùng đồng bằng quá hiếm. Đến nỗi đám cưới không đủ người trẻ bưng mâm quả. Trai thì lên thành phố làm mướn, gái lấy chồng Đài Loan. Tất nhiên, không phải tất cả trai gái đồng bằng đều như vậy hết, nhưng có một bộ phận như vậy và đây là thực tế, là một sự báo động kinh khủng. Ở Hà Nội, đi uống bia ôm, gái miền tây, gái Cần Thơ là mốt. Chưa có nhiều nhà văn để nói lên đầy đủ những hiện thực đó".
"Tôi tin Ngọc Tư có bản lĩnh. Không thể so sánh một tác phẩm văn học với hiện thực cuộc sống một cách máy móc. Tôi tin rằng anh em trong nghề và bạn đọc sẽ rất ủng hộ Nguyễn Ngọc Tư. "Lớn thuyền lớn sóng". Nhà văn lớn nào cũng phải chịu xây xước để khẳng định mình", Dạ Ngân nói.
Anh Vũ Bình Lương, phó phòng bảo vệ chính trị Công an tỉnh Cà Mau, nêu nhận xét ở góc độ người đọc: "Tôi không thích Cánh đồng bất tận. Câu chuyện về mối quan hệ gia đình, cha con trong truyện phản ánh không đúng cuộc sống, tâm tư người dân Cà Mau. Cả những tội ác trong truyện cũng rất hoang đường".
Điện thoại cho nhà văn Nguyễn Ngọc Tư tại Cà Mau, giọng chị vẫn vui vẻ và mộc mạc như mọi khi. Tư cho biết, chị viết "Cánh đồng bất tận" từ những mảng miếng thực tế trong cuộc sống mà chị góp nhặt được cộng với hư cấu riêng của mình.

Đề nghị của Ban tuyên giáo tỉnh ủy tỉnh Cà Mau:

- Hội Văn học nghệ thuật kiểm điểm phê phán tác giả một cách nghiêm khắc, rút kinh nghiệm khi viết, cần phải có thực tiễn cuộc sống, cái đẹp, cái tốt mà xã hội đang xây dựng và phát triển. Tất nhiên, cần phê phán cái chưa tốt, nhưng phải đúng hiện thực và có định hướng cho con người đến cái chân - thiện - mỹ.
- Hội Văn học nghệ thuật nên thường xuyên có định hướng cho người viết, sáng tác nên những tác phẩm hay, có phê phán nhưng phải thận trọng tránh gây nên một phản ứng xã hội gay gắt đối với tác phẩm.
- Thường xuyên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tất cả hội viên ở các lĩnh vực (có Nguyễn Ngọc Tư) được tham gia học tập lý luận chính trị, trau dồi đạo đức phẩm chất, nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Riêng nội dung trả lời phỏng vấn với một số báo thiếu trách nhiệm, đề nghị Đảng, Đoàn nơi Nguyễn Ngọc Tư sinh hoạt giáo dục và kiểm điểm.
(Trích báo cáo ngày 27/3 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau)

V.A
(Theo Tuổi Trẻ)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

gái có chồng

Tôi đọc quyển: Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từ rất sớm - vào năm 2007. Thực sự ngày ấy, khi đọc tôi thấy thích cách viết mộc mạc, chân thành và rất đỗi tự nhiên của chị. Ngày ấy, đọc mà sợ hết. Cứ vừa đọc vừa xem lại phần chưa đọc còn mấy trang. Nghĩ thấy ngộ thật.

Và đến ngày hôm nay, tôi đã đọc lại không biết bao nhiêu lần quyển sách này, nhưng bây giờ đọc có chọn lọc hơn, nghiền ngẫm hơn và thường mỗi lần đọc chỉ đọc một câu chuyện duy nhất trong tập truyện ấy. Cũng không hiểu vì sao hình như là vẫn đổ cho lý do: Vì thích như thế...

Và cũng vì thích như thế, và cũng vì cái lạ trong cách viết của chị, sự bóc tách những sự việc thông qua cuộc sống của từng nhân vật, suy nghĩ, cảm xúc và các giải quyết sự việc ấy của từng nhân vật mà tôi luôn gom nhặt về cho mình tất cả những thông tin, bàn luận của mọi chiều về tập sách mà tôi đã bỏ rất nhiều thời gian để đọc...

Và qua những ý kiến đa chiều ấy, tôi thấy thật sự cũng không nên dùng những câu từ có tầm cỡ như:"văn học Nam Bộ mà có Nguyễn Ngọc Tư là cao thêm mấy tấc nữa rồi" hoặc cũng không nên quá gay gắt khi nhận xét...Thật sự để được gọi là tầm cỡ, để đánh giá sự cao lên hoặc thấp đi của một nền văn học không phải chỉ dựa vào Nguyễn Ngọc Tư...

Lịch sử văn học của chúng ta đã trãi qua nhiều thời kỳ, qua rất nhiều những thăng trầm và tôi nghĩ tất cả những nhà văn ở những thời kỳ đó đã viết rất tốt để ghi lại những hiện thực của cuộc sống ở những thời kỳ, những giai đoạn ấy...để lớp hậu sinh như chúng tôi bây giờ đọc lại vẫn thấy như đã được dự ở một phần nào đó ngõ ngách của cuộc sống khi xưa, vẫn thấy bồi hồi hoặc cũng thấy xót xa, cám cảnh và đau đớn như những nhân vật ấy...Có phải, đấy là cái thành công của người viết, lột tả, phê phán, xây dựng để hướng tới những điều tốt đẹp mà khi xếp sách lại chúng ta vẫn thấy muốn đọc lại để nhìn thật kỹ nhân vật của mình...Không hề có cảm giác trụi trần, dung tục dù thật sự nhân vật ấy, cuộc sống ấy, thời kỳ ấy...là như thế...

Bây giờ, sách thì quá nhiều nhưng việc chọn sách để đọc cũng quá khó, khó vì tên sách quá kêu, quá mời gọi hoặc quá khó hiểu...Khó vì có những quyển sách đọc mà cứ tưởng là sách giáo dục giới tính hoặc sách tử vi hoặc đại loại giống như sách hướng dẫn cách xác định khi nào bị tâm thần thể hoang tưởng v...v...mà muốn tìm những quyển sách đã từng vang bóng một thời để đọc thì cũng thật khó tìm... Nghịch lý thật đấy!

Tôi nghĩ, sẽ không ai khó khăn mà thậm chí còn khuyến khích những tác giả trẻ hoặc có tư tưởng trẻ có phong cách viết lạ, viết mới, lột tả được những mặt trái và phải của cuộc sống để chúng ta soi chúng ta vào đó như một mặt gương để nhìn lại mình  nhưng đừng để người đọc hiểu cái mới, cái lạ, cái đột phá hoặc nâng tầm, nâng bậc ấy chính và sự trụi trần, dung tục để rồi tạo ra một dòng sách thị trường, một số những nhà văn, tác giả thị trường...

Viết về cuộc sống của người Nam Bộ rất khó, cái khó ở chỗ là phải cho người đọc thấy được cái phóng khoáng mà dung dị, chất phát và hiền lành như đất, như nước của nơi ấy...mà cái đấy không phải ai cũng viết và thấy được...

Cũng không hiểu tại sao lại suy nghĩ như thế, nhưng những bài viết của Tác giả ở diễn đàn này luôn làm tôi suy nghĩ và có những cảm xúc như thế này...

Và tôi viết để giải toả và muốn có sự cân bằng trong suy nghĩ của mình...
Không có thất bại, chỉ là chưa thành công...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đăng_Kha

tôi cũng đã đọc "cánh đồng bất tận" và tim tôi như thắt lại...
Hôm ấy bãi trường,
Em đi... còn tôi ở lại
Gió đầy trời...
Gió lạnh phía người dưng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Con đường đi qua Việt Nam, Phật giáo và dòng chảy văn học



Sam Hamill là một dịch giả nổi tiếng của Mỹ, với trên hai mươi tác phẩm dịch thuật thơ Hy Lạp, Latin, Ex-to-ni-a, Nhật Bản, Trung Quốc [… ]
Ông sống cũng như ông viết cùng trong một sát-na, không khác. Nhận định về đời sống của xã hội hậu kỹ nghệ và hậu hiện đại ông viết:

"Tôi nghĩ là chúng ta đang sống trong một nền văn hóa thật đáng tủi hổ là rất vị kỷ, trong đó nhiều người lãng phí cuộc đời mình qua cuộc săn đuổi những thỏa mãn nhất thời. Chỉ có một kẻ vị kỷ khùng điên mới nói là mình làm thơ "cho hậu thế." Vì thế tôi cố gắng rút nghệ thuật từ những ngõ ngách khiêm tốn, từ những thực hành khiêm tốn mỗi ngày, dù tôi tin tưởng một cách hoàn toàn là con đường thơ là một trong hàng chục ngàn con đường dẫn tới đức Phật, và sáng tác thơ là công việc  hoàn toàn tự đầy đủ và tự hoàn chỉnh".

Dưới đây là phần trích bài phỏng vấn nhà thơ dịch giả Sam Hamill do Giáo sư Nguyễn Bá Chung thực hiện.


Nguyễn Bá Chung (NBC): Ông đã tìm đến đạo Phật như thế nào? Điều gì trong Phật giáo thu hút ông ngay từ đầu?

Sam Hamill: Tôi bắt gặp đạo Phật lần đầu tiên là qua cuốn tiểu thuyết Dharma Bums xuất bản năm 1958 của tác giả Jack Kerouac, và qua những ghi chép của Alan Watts, Gary Snyder, Philip Whalen, và cuối cùng là D. T. Suzuki. Tôi đầu quân vào lực lượng Thủy quân lục chiến năm 1961 để tránh xa đường phố và để có tính kỷ luật trong cuộc sống, và việc tòng quân này đã đưa tôi đến Okinawa trong gần 2 năm.

NBC: Vậy ông đã có kinh nghiệm gì khi học Thiền ở Nhật Bản? Học Thiền có khó không? Giờ nhìn lại, ông thấy nó đã tác động thế nào đến cuộc sống của ông?

Sam Hamill: Việc học Thiền của tôi không hề bình thường. Tôi chưa bao giờ là một nhà sư mà cũng không cho là mình thích hợp với cuộc sống tu hành. Tôi học ngồi thiền qua một người Okinawa làm việc ở căn cứ nơi tôi đóng quân. Ông ấy đã từng đi tu, vừa câm vừa điếc, nên phải dẫn tôi đến gặp mấy người bạn của mình để họ dịch cho tôi nghe những câu trả lời của ông. Từ đó ông giúp tôi bắt đầu trải nghiệm shikantaza (tức Chỉ quản đả toạ - "chỉ an nhiên toạ thiền là đủ"). Ông ấy giúp tôi tìm các bài viết và bản dịch của R. H. Blyth cũng như rất nhiều sách về lịch sử và triết lý Phật giáo mà hồi đó rất hiếm có bản tiếng Anh.

Nói theo một cách nào đó, đấy chính là thời điểm bắt đầu trưởng thành của tôi. Những gì trải nghiệm ở Okinawa đã khiến tôi quan tâm nghiên cứu về chiến tranh và hậu quả của nó, tìm hiểu về cái lịch sử đích thực được dệt nên bởi những chuyện hoang đường và những lời nói dối của chính đất nước mình.

NBC: Ông đã thực hành Thiền trong suốt 40 năm qua. Ông nghĩ điều đó đã ảnh hưởng đến cuộc sống của ông và thơ ca của ông thế nào?

Sam Hamill: Tôi luôn cố gắng thực hành tam giáo trong cuộc sống của mình. Nếu như Lão Tử và Thiền nói với ta rằng luôn có những điều giá trị mà ngôn từ không thể diễn tả hết được, thì Khổng phu tử nhắc ta nhớ rằng "mọi sự khôn ngoan bắt nguồn từ chính danh, từ việc học cách gọi sự vật (và cảm xúc) bằng đúng tên của nó", và sách Đại học thì dạy ta biết trách nhiệm của mỗi cá nhân khởi nguồn từ bên trong và biểu hiện ra bên ngoài như thế nào. Liệu tôi có Thiền hơn, xem nào, Khổng phu tử? Tôi không thể trả lời được, chỉ biết việc thực hành ngồi Thiền đã giúp tôi tĩnh tâm và sáng suốt trong mọi việc tôi làm; cũng như việc đấu tranh cho công bằng xã hội, niềm tin vào việc phải gọi tên mọi sự vật và cảm xúc một cách chính xác và trách nhiệm đối với cả ngôn ngữ lẫn hành động của mình.

NBC: Ông coi trọng nhất những bậc thầy nào thời xưa và đương đại?

Sam Hamill: Trong rất nhiều các bậc thầy thời xưa, tôi bị thu hút nhất bởi Đỗ Phủ. Ông ấy thật là một nhà thơ giỏi, hết lòng vì công bằng xã hội và trải qua một cuộc đời bi kịch mà phẩm giá không hề suy suyển.

Tôi cũng thích Basho vì đã đưa thơ haiku và haibun lên hàng kiệt tác. Một số nhà thơ khác mà tôi đặc biệt ngưỡng mộ có thể kể đầy một cuốn sách, chắc chắn phải có George Seferis, Lý Bạch, Neruda, Sappho, Catullus, Lý Thanh Chiếu (nữ thi nhân đời Tống), Issa, Ceslaw Milosz, William Carlos Williams, Denise Levertov, Gary Snyder, và một bậc thầy rất khó tính, Ezra Pound.

NBC: Ông thấy đạo Phật có thể đóng vai trò như thế nào trong văn hóa đương đại của Mỹ? Điểm gì trong đạo Phật theo ông có thể là giá trị lớn trong thế giới ngày nay?

Sam Hamill: Triết lý đạo Phật mênh mông mà tôi lại hiểu quá ít ỏi. Tôi đến với Phật giáo như đến với triết học và thực hành triết lý chứ không phải như đến với tôn giáo. Tứ diệu đế và Bát chính đạo là sự dẫn dắt con người hành xử đúng đắn. Sống trung thực trong một thế giới giả dối chính là làm cách mạng; thực hành trắc ẩn và phi bạo lực trong một thế giới bạo lực cũng là làm cách mạng; giảm tiêu dùng để từ đó giảm phát thải carbon từ mỗi cá nhân trong một thế giới đang ngày càng trở nên mong manh cũng là làm cách mạng. Tập Thiền cũng là làm cách mạng.

Tôi lấy việc nghiên cứu và dịch thơ của các bậc thầy bên cạnh những triết lý của Lão Tử và Trang Tử làm cách thực hành Thiền của mình. Dịch thuật cho thấy cùng một thế giới qua con mắt và ngôn ngữ của những người khác nhau. Phật giáo ở phương Tây cũng thích nghi phần nào với văn hóa phương Tây như khi thơ ca Trung Hoa thích nghi với tiếng Anh - không "hoàn toàn", mà vẫn đúng đắn trong ý chí và hành động. Nhìn thấy Phật trong những người khác không phải là một trải nghiệm mang tính Ấn Độ, hay Việt Nam, hay Trung Hoa, hay Nhật Bản, mà là một trải nghiệm nhân văn mang tính khai sáng.

NBC: Erich Fromm, một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất cuối thế kỷ 20, đã phân biệt hai kiểu tồn tại - "có" và "là". Kiểu "có" luôn tìm kiếm sự sở hữu, gây hấn và quyền lực, trong khi kiểu "là" hướng đến tình yêu, sự sẻ chia và tính sáng tạo. Ông có cho là ý niệm này rất tương hợp với đạo Phật không?

Sam Hamill: Tất cả mọi điều đều không toàn diện. Chúng ta "có" và chúng ta "yêu thương và chia sẻ" ở nhiều mức độ khác nhau. Tất nhiên đạo Phật luôn nhắc chúng ta rằng tập trung vào việc "có" chỉ là ảo tưởng và sẽ dẫn đến hậu quả xấu, ngược lại luôn hành động với lòng trắc ẩn (yêu thương và chia sẻ) bản thân đã là một phần thưởng - là trái ngọt của tiềm năng ở mỗi người. Các quốc gia cũng vậy, đều tạo nên nghiệp chướng. Nước gây ra chiến tranh sẽ tạo ra tâm lý chiến tranh hao người tốn của; nước luôn tránh xung đột và tìm kiếm sự hợp tác sẽ thấm nhuần trong nhân dân ý thức hợp tác thay vì cạnh tranh. Mỗi chính phủ đều phải đối mặt với hai mối quan tâm hàng đầu: 1) Bảo vệ nhân dân và lãnh thổ. 2) Làm cho nhân dân sống ấm no hạnh phúc. Nước nào cũng có thể là láng giềng tốt hoặc xấu.

NBC: Đây sẽ là lần thứ hai ông đến Việt Nam? Vậy lần thứ nhất ông đã có ấn tượng gì đặc biệt?

Sam Hamill: Đây là một câu hỏi rất phức tạp. Tôi đã rất xúc động trước những người tôi gặp, những điều tôi thấy và làm, nhưng tôi cũng rất đau lòng (một lần nữa) khi nhìn thấy những gì chính phủ Mỹ đã làm 40 năm trước cũng như những gì chính phủ Mỹ đã làm - và không làm - kể từ đó. Hòa bình sẽ có khi ta biết cách nhìn thế giới qua con mắt của người khác…, từ bỏ cách nhìn nhận "sự khác biệt" như một khái niệm xấu, và hiểu rằng nhân loại vốn dĩ đông đúc và khác biệt, nhưng vẫn chỉ là một nhân loại. Sự khác biệt đó làm giàu thêm nền văn hóa nghệ thuật của nhân loại, liên kết chúng ta lại với nhau khi chúng ta tiếp tục tiến hóa - và khi chúng ta tiếp tục đấu tranh, theo cách của riêng mình, để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn một chút.

http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/nguyenbinh/5_sam25-400.jpg

Tôi không thể gán một "vai trò" đặc biệt nào cho bất cứ nhà thơ nào. Mỗi chúng ta đều tạo ra cái "tôi" của mình qua những gì chúng ta làm và viết. Một số viết hư cấu, một số lại viết từ trải nghiệm. Không có một cách làm đúng cho mọi nghệ thuật. Nhưng nhà thơ cũng là công dân và phải có trách nhiệm công dân. Chúng ta phải là công dân tốt của thế giới trước khi là công dân tốt của nước Mỹ - vì chỉ có một nhân loại và chúng ta không và không thể tách rời nhau. Điều đó không có nghĩa là nhà thơ không có quyền (hay nghĩa vụ thơ ca) xa rời thế tục như Emily Dickinson, Hàn Sơn Tử hay Saigyo. Mỗi chúng ta đều theo đuổi năng khiếu thơ ca mà chúng ta có, thể hiện lòng biết ơn trong các tác phẩm của mình, nếu chúng ta khôn ngoan.
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Ngày 21.8.2010, tác giả Anh Ngọc đăng lên mạng bài như sau:

THƠ TẶNG GS NGÔ BẢO CHÂU,
VIẾT TỪ… 27 NĂM TRƯỚC

   
 Cũng như nhiều người Việt Nam khác, mấy hôm nay tôi thực sự xúc động vì cái tin Giáo sư Ngô Bảo Châu, một người Việt Nam trẻ tuổi đã đạt đến đỉnh cao nhất của nền Toán học thế giới, với công trình nghiên cứu thiên tài được công nhận và vinh danh bằng Giải thưởng Fields – “Giải Nobel của Toán học”. Tôi chợt nhớ lại một ký ức vui vui: Số là, vào mùa Thu năm 1983, nghĩa là cách nay đã 27 năm, tôi ngồi viết bản trường ca “Điệp khúc vô danh”, một tác phẩm mà thông qua nó, tôi khao khát muốn nhìn lại tất cả chiều dài tồn tại của lịch sử dân tộc Việt Nam, từ quá khứ xa, quá khứ gần, cho đến những ngày đang sống…, những phẩm chất cao thượng đáng tự hào bên những khiếm khuyết không sao giấu giếm, những cần cù, dũng cảm và tài hoa vô song bên những non kém, sai lầm đã buộc phải trả giá…, và sau tất cả những dòng viết như rút ruột mà không rõ là hay hay dở ấy về những gì đã qua, tôi chợt bồi hồi nghĩ tới tương lai – vâng, vào cái năm 1983 đầy khó khăn, u ám của cái đêm trước ngày Đổi Mới ấy, tôi đã mơ tưởng những gì về Tương Lai của Dân Tộc và Đất Nước? Ai, ai sẽ là hình mẫu của con người Việt Nam trong những ngày sẽ tới?  Và, cái hình ảnh lý tưởng chói lòa của những con người của Tương Lai mà tôi chọn dùng để khép lại bản trường ca và cũng là mở ra một chân trời mới ngày ấy đã khiến cho chính tôi đến giờ này cũng còn kinh ngạc: Đó là hình ảnh của một nhà Toán học! Ôi, có phải  đơn giản chỉ vì ở trong đáy sâu bản chất, Thơ và Toán đã gặp nhau ở một điểm là đều mang đầy phẩm chất lãng mạn? Tôi không biết nữa.  Nhưng, sẽ không có gì là khiên cưỡng nếu tôi mạn phép được coi những câu thơ giản dị đến như chưa kịp gọt rũa ấy là món quà nhỏ bé mà tôi đã dành sẵn từ 27 năm trước để gửi tặng Giáo sư Ngô Bảo Châu và tất cả những nhà khoa học tài ba, dũng cảm và lãng mạn của dân tộc Việt Nam hôm nay.
        

       … Dự định điên rồ nào đã đến cùng tôi

       Khi kết thúc trường ca này bằng những vần thơ gửi một nhà toán học

       Lại một mối tình mà tôi đã mất

       Đang dục tôi ngồi viết những dòng này

        

       Anh – nhân vật anh hùng của thời đại hôm nay

       Người mà tôi cả đời ao ước

       Tôi dơ tay mà không sao với được

       Cái tình yêu tinh khiết tựa trẻ thơ

       Cái tình yêu mê mẩn đến dại khờ

       Yêu hết trời xanh, chim bay cùng hoa nở

       Nhưng yêu nhất là những chùm con số

       Anh dùng gang tay để đo đạc bầu trời

       Công việc với anh thay thế mọi trò chơi

       Anh không có trò giải trí nào ngoài công việc

       Rất thông minh nhưng thường hay mất cắp

       Trừ một thứ mà anh quý nhất : thời gian

       Trận đánh diễn ra trên những mặt bàn

       Trận đánh này anh một mình đơn độc

       Qua một đêm có thể thành bạc tóc

       Tư lệnh là anh

       Chiến sĩ cũng là anh

       Anh dấn mình giữa trang giấy vô danh

       Những cái vạch dọc ngang đầy ma lực

       Câu giải đáp trốn trên đầu ngọn bút

       Trang giấy dơ lưng chịu gánh nặng một đời

       Con số khô khan

       Con số không lời

       Mảnh thiên thể vô hồn trong vũ trụ

       Trang giấy mênh mông

       Trái đất thì bé nhỏ

       Chưa ra ngoài một con tính vi phân

       Trái đất tròn tựa một trái cam

       Bụ bẫm ngon lành như ăn được

       Những con số không làm nên vật chất

       Nhưng làm cho vật chất hóa giàu thêm

       Có phải rằng vì thế đêm đêm

       Anh vật lộn với những hàng con số

       Cái vạch bút chì mảnh mai bé nhỏ

       Xuyên qua đêm như tia nắng mặt trời

        

       Đã trở thành lý tưởng của thơ tôi

       Những con người với niềm mê say tìm kiếm

       Vì hạnh phúc chính là bài toán lớn

       Trái cam treo bí ẩn trước con người

       Mà tất cả chúng ta đang phấn đấu suốt đời

       Để tìm ra đáp số.

        

                                            A.N.

                      (Trích trường ca “Điệp khúc vô danh”, 1983)
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Văn học, Phật giáo - những kỳ vọng từ đất Thăng Long



TT - Hội thảo “Văn học, Phật giáo với 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội” vừa khai mạc tại Bình Dương hôm 28-8, quy tụ gần 300 nhà nghiên cứu văn học, Phật giáo với hơn 36 tham luận do Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM phối hợp với Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM tổ chức.

Có bốn nhóm chủ đề được đề cập: Vai trò của Phật giáo đối với việc thành lập, phát triển kinh đô Thăng Long và nước Đại Việt thời Lý - Trần và những triều đại về sau; Văn học Phật giáo và 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội; Văn học cổ điển viết về Thăng Long - Hà Nội; Văn học hiện đại viết về Thăng Long - Hà Nội.

Nhiều thành tựu văn học thời Lý - Trần cho đến thời hiện đại được các học giả, nhà nghiên cứu nêu lại và phân tích trong mối quan hệ với Thăng Long - Hà Nội trong nhiều chiều: cảm hứng văn học, chủ đề sáng tác... Như các tham luận về phần văn học cổ điển: “Biểu tượng đa nghĩa của Thăng Long trong thơ Nguyễn Du” (GS Nguyễn Huệ Chi), “Văn học Phật giáo VN đồng hành với 1.000 năm Thăng Long” (hòa thượng Thích Phước Sơn), “Văn học Phật giáo đã viết nên chương mở đầu xuất sắc của nền văn học VN” (Lê Sơn), “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh - một biểu hiện của xu hướng dung hợp tư tưởng” (Nguyễn Đức Mậu)...

Và đặc biệt, có rất nhiều tham luận đánh giá cao những tác phẩm văn học VN hiện đại với đề tài Thăng Long - Hà Nội: “Tiểu thuyết viết về Lý Công Uẩn của Phạm Minh Kiên và cảm hứng dân tộc trong tiểu thuyết lịch sử Nam kỳ trước 1945” (Đoàn Lê Giang), “Tư tưởng Phật giáo VN thời Lý - Trần qua vở kịch Rừng trúc” (Nguyễn Thị Lam Anh), “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp như một dụ ngôn về lịch sử và quá trình viết lại lịch sử” (Phạm Ngọc Lan).

Trong đó có một bộ phận văn học miền Nam cũng gắn với Thăng Long - Hà Nội như: “Hình ảnh Thăng Long - Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” (Nguyễn Thị Thu Trang), “Thăng Long - Hà Nội trong sáng tác của một số nhà văn dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam (1954-1975)” (Phạm Thanh Hùng), “Đôi thi sĩ đất Hà Tiên và Thăng Long - Hà Nội” (Võ Văn Nhơn)...

Trong lời phát biểu khai mạc, hòa thượng Thích Trí Quảng - phó chủ tịch hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo VN - nhận định: “Phật giáo VN luôn đồng hành cùng dân tộc, đồng cam cộng khổ chia ngọt sẻ bùi cùng dân tộc, thăng trầm cùng dân tộc trải qua nhiều thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Sự an nguy của dân tộc cũng chính là nỗi lo canh cánh trong lòng những người con Phật, bởi tất cả đều mong muốn một đời sống thanh bình, an lạc...”.

Và PGS Trần Hữu Tá trong báo cáo đề dẫn đã dẫn lời GS Phong Lê cho rằng: “Cuộc hành trình theo gương mặt xã hội và chân dung tinh thần con người Hà Nội trải rộng suốt chiều dài lịch sử của nền văn học... giúp mọi thế hệ người đọc hiểu bản lĩnh dân tộc Việt và cốt cách con người Việt”.

Ban tổ chức đã đúc kết từ hội thảo các bài học quan trọng: bài học về bảo vệ đất nước, ngoại giao quốc tế, khoan dung tôn giáo, về dân chủ, chính trị, minh triết, sự đồng hành. Trong đó có những ý tưởng tốt như: “Cả hai triều đại Lý - Trần đất nước ta vững mạnh về chính trị, kinh tế và giáo dục, các vị vua minh triết để lại nhiều áng văn bất hủ cho nền văn học nước nhà. Các nhà vua khéo léo trong việc dùng đạo để giúp đời và lấy dữ liệu đời để soi sáng đạo...”.

Trong đó, vấn đề phát triển giáo dục Phật giáo đang được nhiều người quan tâm, bởi tại nhiều nước Phật học được xem là khoa độc lập có cấp đào tạo từ cử nhân đến tiến sĩ. Và Học viện Phật giáo VN hiện nay chỉ là nơi dạy Phật học như một ngành triết học hay khoa học xã hội và nhân văn. Sự phát triển ngành Phật học đồng nghĩa với phát triển tri thức và khoa học.

LAM ĐIỀN
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Thơ Lưu Quang Vũ đoạt giải thưởng HNV Hà Nội



"Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi" - tuyển tập những tác phẩm xuất sắc của đời thơ Lưu Quang Vũ - vừa được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải Thành tựu về thơ năm 2010.

Tập  Cởi gió của Nguyễn Phan Quế Mai nhận được giải thưởng ở lĩnh vực thơ. Còn tiểu thuyết Nhân gian của Thùy Dương được tôn vinh ở thể loại văn xuôi.
Ra mắt hồi tháng 5, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi   tập hợp hơn 100 thi phẩm của Lưu Quang Vũ, trong đó có cả những tác phẩm chưa từng được công bố của ông. Cuốn sách được đánh giá là "tuyển tập thơ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất về Lưu Quang Vũ cho đến nay".

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/ThoLQV1.jpg
Tập thơ của Lưu Quang Vũ.


Với giọng thơ nồng ấm tình cảm, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi mang đến một thế giới tinh thần phong phú của Lưu Quang Vũ. Đó là nơi ông thể hiện nhiều sắc màu tình yêu: Tình yêu với thành phố nơi mình sinh ra và lớn lên, tình yêu đôi lứa, tình yêu với đất nước, quê hương, tình yêu bạn bè, đồng loại…
Trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của Lưu Quang Vũ, thơ ca không phải là thành tựu nổi bật nhất của ông. Ông tỏa sáng hơn ở thể loại kịch với những đóng góp to lớn cho cả một giai đoạn huy hoàng của sân khấu Việt Nam. Tuy nhiên, theo nhà phê bình Lưu Khánh Thơ, thơ mới là nơi Lưu Quang Vũ thể hiện niềm say mê, đắm đuối, là nơi ông sống với những khát vọng mãnh liệt của mình.
Việc trao giải cho tuyển thơ này đã khẳng định thành tựu của Lưu Quang Vũ trong lĩnh vực thơ và tính thời sự trong tác phẩm của ông. Tập thơ nhận được sự đồng thuận của 9 trong số 12 thành viên chung khảo.

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/CoigioNguyenPhanQueMai.jpg
Tập thơ "Cởi gió" của Nguyễn Phan Quế Mai.


Nhỏ nhắn, mỏng mảnh với 42 tác phẩm, tập thơ Cởi gió   của Nguyễn Phan Quế Mai thuyết phục được 11 trong số 12 thành viên Hội đồng chung khảo. Cuốn sách được đánh giá là "một giọng thơ biết tiết chế để khi chạm đến cái riêng tư vẫn không sa vào bé nhỏ, vụn vặt. Tình cảm với đất nước quê hương của người xa xứ, hoặc đang sống ngay giữa lòng đất nước, thật tha thiết mà không lạm dụng cảm xúc. Tác giả cũng chứng tỏ một bản lĩnh thơ trẻ, không chấp nhận cách cấu tứ quen tay, không sa vào ngôn từ dễ dãi, cũng không gây choáng bằng hình thức cầu kỳ, phù phiếm".
Ngay từ khi mới ra mắt, tập thơ của Nguyễn Phan Quế Mai đã được bạn bè đồng nghiệp đánh giá cao. Nhà thơ Trần Anh Thái nhận xét: Cởi gió không phải là một trạng thái, một tâm trạng mà là một ý chí của sáng tạo. Nhà thơ không muốn mình phải là một cái gì, bắt buộc là cái gì, chỉ thuần túy là một khát vọng trong trẻo và hồn nhiên. Và có lẽ chính vì hồn nhiên nên nhà thơ có thể tiếp cận được với những vẻ đẹp tươi tắn, giản dị thuần khiết".
Ở thể loại văn xuôi, tiểu thuyết Nhân gian  của Thùy Dương là đóng góp của một nhà văn nữ trong việc khám phá và tái hiện đời sống theo một cách nhìn khác. Tác phẩm là câu chuyện đan xen giữa chiến tranh và thời bình; là những giọng kể luân phiên giữa người sống và người chết, là những cảm xúc vừa giận hờn, trách móc vừa thông cảm đau xót với cuộc đi tìm mộ của người em sinh đôi đã hy sinh.

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/NhangiancuaThuyDuong.jpg
Tiểu thuyết "Nhân gian" của Thùy Dương.


Hội đồng chung khảo đánh giá: "Cõi nhân gian trong tác phẩm không chỉ là cõi người, mà người đọc còn được dẫn dắt vào cõi của người đã khuất. Thêm một cõi nữa mang tính nửa âm nửa dương: chuyện về những người đi tìm hài cốt liệt sĩ, những con người luôn bị ám ảnh và đời sống luôn trăn trở về những kiếp người đã chuyển sang cõi âm. Góc nhìn hiện thực trong tác phẩm được thay đổi xoay quanh ba cõi này và tay nghề của tác giả cũng được thử thách trong quá trình dẫn dắt câu chuyện theo một cấu trúc phân mảng". Cuốn sách nhận được 8 trong số 12 phiếu bầu.
Năm nay, Hội Nhà văn Hà Nội không trao giải cho sách dịch và sách phê bình, lý luận. Đại diện Hội cho biết: "Những bản dịch đáng chú ý được đề cử, bên cạnh ưu điểm thường đi kèm với những điều gây băn khoăn nên không thuyết phục được đa số hội đồng chung khảo. Cũng như vậy, phần giải thưởng dành cho sách phê bình tiểu luận đã phải để trống bởi hội đồng không chọn được tác phẩm thực sự nổi trội".
Lễ trao giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội sẽ được tổ chức vào trung tuần tháng 10.

H.T.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Nhà xuất bản Việt Nam vật lộn để phát hành được những tác phẩm kinh điển phương Tây



Tiêu đề tác phẩm “Democracy in America” của tác giả người Pháp Alexis de Tocqueville không được duyệt tại Việt Nam, vì thế, nó được xuất bản dưới một cái tên khác.

Khi Nhà xuất bản Tri thức tại Hà Nội phát hành tác phẩm này ba năm trước đây, nó không đề cập tới chữ "dân chủ" ở tiêu đề. Tác phẩm đã mang tên “Nền dân trị Mỹ”


(trích blog BS)

Bài nguyên tác của Aude Genet đăng trên AFP cách đây 20 giờ đồng hồ. Các bạn nào quan tâm, và thích đọc tiếng Anh, thì bấm vào đây: Vietnam publisher struggles to issue Western classics

Có phát biểu của Gs Chu Hảo.
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thu Phong

.

Kính gửi các thành viên thi viện.


Trang Nguyệt Viên là một trang web hoạt động văn học nghệ thuật, đặc biệt là thơ. Sau cuộc thi thành công mới đây về "VU LAN", Nguyệt Viên đang mở cuộc thi "Thơ Tình Cuối Mùa Thu".
Theo link này: http://nguyetvien.net/showthread.php?t=1392

Đây là hoạt động văn học để giao lưu và rèn luyện, nâng cao tay viết.  BTC cuộc thi trân trọng mời các thành viên thi viện cùng tham gia.
Điều kiện tham gia dễ dàng, nếu các bạn chưa có nick, xin mời đăng ký, rồi gửi bài (nhớ đọc kỹ thể lệ).

Chúc các bạn thành công.



(TP gửi giúp giấy mời này vì TP thấy nhiều mem của thi viện, Văn Học Trẻ cũng đã là mem của Nguyệt Viên.)

.
Là sương trong vắt sớm mai
Là trời xanh biếc mắt ai đắm chìm
Là chiều lạc một cánh chim
Là MÂY lay động trái tim hững hờ...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

VÀI Ý NGHĨ NHÂN HỘI THẢO VỀ TỐ HỮU

* LẠI NGUYÊN ÂN



Tôi cho rằng thơ Tố Hữu có thể có tình giai cấp, tình dân tộc, nhưng không có tình nhân loại.

1


Kỷ niệm Tố Hữu năm nay, nhân 90 năm sinh, được tổ chức khá rùm beng: đã một buổi trình diễn thơ-nhạc tại Nhà hát Lớn hôm chủ nhật 2/10, lại buổi hội thảo tại ban Tuyên huấn TƯ hôm nay, 4/10. Làm lớn  nhân năm chẵn, lại nhân lễ ngàn năm Thăng Long, rõ rồi; nhưng liệu có phải vì cái uy của thơ Tố Hữu đang suy trong công chúng? Nghe đôi nhà giáo đại học cho biết, sinh viên ngữ văn không thích làm luận văn, luận án về thơ Tố Hữu. Không tin thì ban Tuyên huấn cho cán bộ nhân viên làm điều tra xem?  

2


Đọc lại tài liệu giới phê bình nghiên cứu Việt Nam viết về Tố Hữu, nhất là những gì viết từ 1955 đến 2000, bạn phải lưu ý… “trừ bì”, tức là phải lượng định mức độ phóng đại của những lời khen. Một đôi người chỉ khen cho phải phép trước kẻ đắc thời đắc thế, nhưng nhiều người thì khen thơ Tố Hữu là khen cấp trên, đề lên tận lưng trời, là để kiếm lợi riêng, như cái tay phụ trách tạp chí của Viện nọ dám viết rằng Tố Hữu làm chức càng cao thì thơ càng hay! (trong khi Xuân Sách nhận xét đúng hơn: nhà càng lộng gió thơ càng nhạt!). Thơ Tố Hữu đã từng đem lại tiền bạc, học hàm học vị cho không ít nhà giáo, nhà nghiên cứu, – điều này có thật, nhưng “chất lượng khoa học” của sự phê bình nghiên cứu trước đây về thơ Tố Hữu thì nay cần phải trở thành một đối tượng nghiên cứu khảo sát, đừng có mặc nhiên trích dẫn vô tư.

3


Giá trị thực sự của thơ Tố Hữu ra sao? Có sống sót được với thời gian không? – là những điều người ta nên nghĩ tiếp.

Tôi cho rằng thơ Tố Hữu có thể có tình giai cấp, tình dân tộc, nhưng không có tình nhân loại.  

Không có tình nhân loại là ý thức, là chủ ý của nhà thơ Tố Hữu, người đã ra lệnh cho toàn giới lý luận và sáng tác văn nghệ ở miền Bắc phải loại bỏ tình nhân loại, bác bỏ chủ nghiã nhân đạo (humanisme) cả về lý luận lẫn thực tiễn, bảo nó là “nhân loại chung chung, nhân tính trừu tượng”, mang tính tư sản, cấm không ai được rơi vào quan niệm đó, nếu không muốn bị trừng phạt! Tự ông nói thơ ông là “đồng ý, đồng tình, đồng chí”, nghĩa là những ai không là “đồng chí” với ông thì không thể được ông thích, những ai không “đồng tình, đồng ý” với ông thì đều bị loại ra khỏi thế giới thơ ông. Bị nhà thơ thường dân ghét thì cũng chẳng sao, nhưng bị nhà thơ quyền uy đầy mình như Tố Hữu ghét thì kẻ bị ghét sẽ khốn nạn từ thân xác đến tận tâm thần, như những cựu “đồng chí” Nhân văn-Giai phẩm đó!

Những nhận định cũ về tình giai cấp, tình dân tộc ở thơ Tố Hữu cần được minh định lại. Tình dân tộc ở thơ ông chỉ có trong sự phụ thuộc tình giai cấp; ông thạo các điệu thơ Việt cũ, như câu lục bát, câu song thất, lời diễn ca; nhưng ông lại bắt những gì dân tộc tính phải mang màu thời đại, lại là cái màu như ý ông, tức là phải gần gụi công nông binh, – ông chỉ thừa nhận là có tính dân tộc những gì gần gũi với các tầng lớp bình dân hoặc dưới đáy; ông là một học trò tiểu tư sản sinh ra ở đất “thần kinh” Huế nhưng lại ghét tất thảy những gì mang chất trí thức, bác học; ông là người hoạt động chính trị mạnh mẽ, nhiều đam mê và cơ mưu, nhưng thơ ông lại cổ vũ một thứ chủ nghĩa cấm dục hà khắc, may lắm cũng chỉ có một chút xíu tình yêu platonic, “trái tim chia ba phần…, dành cho Đảng phần nhiều”... Tình giai cấp ở thơ ông tựu trung là tìm sự cảm thông trong những tầng lớp dưới, bị thống trị, kêu gọi họ hợp sức lật đổ giai cấp giàu có đang thống trị và giao cái quyền lực vừa giành được ấy cho ông và các đồng chí của ông, rồi từ đấy hãy cúc cung lao động chiến đấu dưới sự dẫn dắt không thể lầm lẫn của bọn ông! Thế thôi. Tức là nó mang đầy sự thực dụng, sự tuyên truyền. Tố Hữu hiển nhiên là nhà thơ của Đảng mình, nhưng vị tất đã là nhà thơ của dân tộc mình.

Ảnh hưởng thơ Tố Hữu ở Việt Nam (nói chính xác là ở vùng thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) là lớn, nhờ việc bộ máy tuyên truyền do ông đứng đầu, đưa thơ ấy tràn ngập các kênh chủ yếu: sách giáo khoa, sách báo phổ thông, đài phát thanh… Nói cho đúng, công chúng sống trên đất Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam biết và thuộc thơ Tố Hữu là vì không thể tránh thoát thơ ấy, là vì không có chỗ trốn khỏi thơ ấy. Tất nhiên thơ ấy chiếm lĩnh tâm hồn rất nhiều lớp người, và chính vì thế mà họ đã làm những gì thơ ấy kêu gọi, nhất là… ra trận!  

Thơ Tố Hữu có những vết nhơ không thể tẩy xóa, như đoạn thơ “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi “Sta-lin” ! Ý thơ ấy, ngay tầm gần, đã trái hẳn lẽ thường nhân loại: trẻ con tập nói thì gọi “mẹ” chứ đâu đã biết ai xa lạ? trẻ Việt làm sao tập nói được cái từ đa tiết xịt xoạt như thế kia? (Bài đăng tạp chí Văn nghệ 1953 là Tiếng đầu lòng nó gọi ‘Ông Lin’ , bản in vào sách Việt Bắc  1955 sửa thành Tiếng đầu lòng con gọi ‘Stalin’). Lại nữa, người đàn bà Việt dân quê làm sao có thể “Thương cha thương mẹ thương chồng / Thương mình thương một, thương Ông (Stalin) thương mười”  (!?!). Đây quả là một quái tượng trong thơ ca tiếng Việt và thơ ca thế giới, khi nhà thơ (thường được xem là kẻ chỉ biểu dương những gì nhân ái, lương thiện) lại ngợi ca “công đức” một Bạo chúa, một Hung thần, một Độc tài khét tiếng, một Đao phủ thủ vĩ đại, và để làm cái việc ngợi ca trái lẽ ấy, người làm thơ đã hoàn toàn xé bỏ những giới hạn thông thường của tình cảm nhân loại.

Trên mạng internet bây giờ đôi khi còn thấy người ta cho rằng Tố Hữu là tác giả đoạn thơ khủng khiếp này:    

   Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
   Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
   Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
   Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.

Tôi thấy lạ với đoạn thơ này, vì dường như chưa từng gặp nó trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc. Vậy nhân đây đề xuất với giới nghiên cứu, nhất là các giáo sư đã từng “ăn lộc” nhiều ở thơ Tố Hữu (như Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử…), hãy tìm ra ngọn nguồn đoạn thơ này và thông tin lại cho bạn đọc; nếu nó không phải là thuộc ngòi bút Tố Hữu thì cũng là may cho ông, tuy vẫn thật buồn cho giới làm thơ của chúng ta. Lọt sàng xuống nia, nó vẫn là của một ngòi bút Việt Nam nào đó. Vượt ra ngoài chuyện xác định “tác quyền” cụ thể, đoạn thơ này thông báo rằng còn có cả một dòng thơ ca quần chúng sắt máu đầy hận thù giai cấp từng được Đảng khơi lên, từng được sáng tác ra và lưu truyền trong dân chúng, – đó là “văn thơ (có cả kịch, chèo) phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất”, xuất hiện từ khoảng 1951 và tự tắt đi vào cuối 1956. Rất nhiều tên tuổi nhà thơ nhà văn quen thuộc có góp tác phẩm vào mảng văn thơ này, kể cả Nguyễn Tuân, kể cả Nguyễn Bính, kể cả Hữu Loan…, tất nhiên số đông hơn vẫn là những tác giả quần chúng ít tên tuổi. Cho đến nay, về cải cách ruộng đất thì ít nhiều đã có những công trình, luận  án sử học, nhưng mảng văn thơ cải cách ruộng đất thì vẫn chưa hề có một sưu tập, tuyển tập tác phẩm, cũng chưa có một công trình nghiên cứu, luận án hay luận văn nào đề cập tới. Cố tình hay vô ý của giới nghiên cứu văn học chính ngạch ta đây? Hãy chờ nghe trả lời từ những người đang phụ trách các cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội của nhà nước. Nhưng dù sao thì cũng đừng nghĩ rằng hễ giới nghiên cứu làm bộ quên thì mảng văn thơ này sẽ dần dần biến mất; tốt hơn là nên tiếp cận bằng các sưu tập và công trình nghiên cứu, tức là nhắc lại nó như một kinh nghiệm đau xót của một nền văn học từng sa vào những giọng điệu và tinh thần phi nhân đáng hổ thẹn ấy.  

4


Tôi không biết viết truyện, nên rất muốn mách cho ai đó giỏi viết truyện, hãy viết một truyện “chưởng” có nhan đề “Ly Khách Thần Kinh và quần anh Bắc Hà”. Đây là một chuyện “quần hùng” của giới văn sĩ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam những năm 1947-1990.  

“Ly Khách Thần Kinh” là Tố Hữu, một người Huế (= đất thần kinh), rời Huế ra Bắc hoạt động từ 1947 (hoặc sớm hơn) nên gọi là “ly khách” (dựa câu thơ Thâm Tâm “Ly khách! Ly khách! Con đường vắng ”); “quần anh Bắc Hà” dĩ nhiên là nói đám văn sĩ Việt trên đất Bắc, từ những người tham gia Văn hóa cứu quốc thời đầu đến những tài danh thuộc lớp kế tiếp.

Những văn sĩ tham gia hội Văn hóa cứu quốc (VHCQ) thời đầu (1943-45) hầu hết đều là những tài năng trẻ ở đất Bắc, hứa hẹn kế tiếp lớp tiền chiến đầy thành tựu. VHCQ là đoàn thể nằm trong Việt Minh rộng lớn, nhưng quan hệ trực tiếp với Hội này là các nhân sự đứng đầu xứ ủy Bắc Kỳ (của ĐCS Đông Dương). Ngay sau ngày cướp chính quyền (19/8/1945) VHCQ rất được tin dùng. Việc tổ chức lễ tuyên bố độc lập được giao phần chính cho VHCQ; đến số liệu người chết trong nạn đói 1945 nêu trong Tuyên ngôn độc lập cũng do VHCQ cung cấp…

Trong năm 1946 “Ly Khách Thần Kinh” có ra Hà Nội, có ghé thăm VHCQ trước lúc trở về Thanh, VHCQ in cho tập “Thơ”  (1959 in lại đổi là “Từ ấy”), thế thôi…  

Vậy mà chỉ hơn một năm sau, lúc đã bước vào kháng chiến, tại Việt Bắc, giữa những văn sĩ đã rời Hà Nội đến “thủ đô gió ngàn” bỗng lại xuất hiện “Ly Khách Thần Kinh”, không phải như một văn sĩ như các văn sĩ khác, mà như một người của Đảng cử sang lãnh đạo cả giới này.  

Thế tức là những văn sĩ theo VHCQ từ đầu, đã không có ai được đủ tin cậy để TƯ Đảng giao cho lãnh đạo giới mình. Những Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi hẳn là có hơi bị sốc?

Phía “Ly Khách Thần Kinh”, một tập “Thơ” (Từ ấy) chưa đủ để đám văn sĩ đi KC này phục tài. Làm sao chàng so đọ được tài văn với Nguyễn Tuân, tài thơ với Xuân Diệu, tài nhạc với Văn Cao, …?  

Cuộc “chinh phạt” của “Ly Khách Thần Kinh”  phải diễn ra với những mưu kế khác, tùy theo thời thế.  

Năm 1949 thì chỉ bằng mấy nguyên tắc “dân tộc-khoa học-đại chúng” đã có thể dằn mặt Nguyễn Đình Thi và những người trẻ đang hăm hở làm mới thơ Việt.

Sau 1950 (khai thông biên giới, tiếp nhận ảnh hưởng Trung Cộng), thì nhân danh chỉnh huấn, còn có thể buộc hầu hết “quần anh Bắc Hà”, kể cả những tài danh lớn như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan… viết kiểm điểm về lập trường giai cấp từng thể hiện trong sáng tác trước kia, tuyên bố từ bỏ thành quả văn nghệ tiền chiến của chính mình, cam kết từ đây chỉ viết trong vòng “yêu-căm-chiến-lạc” (= yêu nước, căm thù giặc, chiến đấu, lạc quan).

Tất nhiên đám “quần anh Bắc Hà” không chỉ có duy nhất một bọn, thế nên tốp này quy hàng lại có tốp khác khiêu chiến. Tranh luận tại Hà Thành hồi 1955 về tập thơ “Việt Bắc”  là điểm va chạm nảy lửa; một bọn văn sĩ (Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Bính…) ngạo nghễ xem thường lối thơ bình dân hóa, nhân danh công nông binh của “Ly Khách Thần Kinh”, trong khi đám đã quy hàng (Xuân Diệu, HoàiThanh, Nguyễn ĐìnhThi…) thì ra sức tâng bốc, hơn thế, còn dùng quyền lãnh đạo để buộc chấm dứt thảo luận khi những lời chê bai đậm dần lên…

Nhưng sự tranh biện lại nảy ra ở quy mô rộng hơn, động đến những tai họa xã hội có thật, tại đất mình (cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức) và tại “phe” mình (dân Hung, Ba Lan nổi lên chống ách XHCN Xô-viết…)… “Ly Khách Thần Kinh”, cùng với đàn anh trong chính giới, dùng sách “trăm hoa đua nở” của Mao, cho “mở rộng dân chủ”, “phê bình lãnh đạo” để xả van trí thức, nhân thể cho lộ diện những gương mặt bướng bỉnh đáng ghét. Thế là có mùa vụ ngắn (từ tháng 9 đến 12/1956) của những Giai Phẩm, Nhân Văn, Đất Mới, Sáng Tạo, Trăm Hoa… Rồi thoắt cái, van phê bình khóa lại, màn đua nở hạ xuống, tất cả mọi ý kiến bất đồng đã phát biểu trở thành chứng tích để kết tội “chống chế độ”, một loạt “đồng chí” trí thức, văn nghệ sĩ được biến thành kẻ thù của tổ quốc, của chế độ… Một không khí sợ hãi đã hình thành trong giới văn nghệ, trong toàn xã hội, – mục tiêu thiết lập chuyên chế tinh thần đã thành đạt.

“Ly Khách Thần Kinh” đắc thắng, bước thăng tiến ngày một cao. Đám “quần anh” kế sau tại Hà Thành có lúc toan thở phào, tưởng chừng khi anh Lớn bước vào nội các làm tả tướng quốc chuyên lo việc canh nông, thì thôi, để miền văn nghệ cho quan lớn… nhỏ hơn. Họ đã lầm, “Ly Khách Thần Kinh” vẫn canh chừng đất văn nghệ vốn là “đất phát tích” của mình, và vẫn thừa uy lực ngoái sang giáng một chưởng quyết định vào vài kẻ dám “đề dẫn” (1979) cho một tinh thần văn chương có mùi khác khác. Cú choảng này nhất cử lưỡng tiện: vừa cản đường và vô hiệu hóa một tay bút từ chiến trường bước ra với tương lai chính trị có vẻ tràn trề, vừa làm phúc cứu thua cho Nguyễn Đình Thi đang đứng trước nguy cơ bị thải loại quá sớm. Nguyễn Đình Thi được cứu, lại đứng ra chủ trì Đại Hội Nhà Văn thứ 3 (1983) và tái đắc cử tổng thư ký, trong hân hoan trót nói… thật những lời có cánh đầy tai tiếng, tự xem giới nhà văn của mình là những “hạt bụi” lấp lánh dưới ánh sáng đảng

Nhưng đường thăng tiến của “Ly Khách Thần Kinh” không phải cứ lên cao … cao mãi, tuy rằng, đã có lúc khắp tam kỳ tứ trấn ngập tràn lời đồn đại Ngài sẽ được truyền ngôi tổng Bí. Sau vụ đổi tiền 1985, lạm phát sốt lên theo nhịp thơ leo thang, lên tới vài chục ngàn lần, đất nước rúng động, lãnh đạo giật mình; tài kinh tế của “Ly Khách Thần Kinh” đã bộc lộ trọn vẹn, Ngài bèn bị phạt thẻ đỏ, mất chức, rời nội các. Cuộc “đổi mới” diễn ra, nghe nói Ngài hậm hực không tán thành. Rồi thì Ngài chìm vào tâm trạng “riêng một ngọn đèn” ở bên lề giới chính khách mới…  

Ngài quay lại chơi với giới văn sĩ. Thường là dễ chơi với đám trẻ con khi xưa mà nay đã thành những nhà văn nhà thơ người lớn. Còn với những “cố nhân” nặng nợ một thời thì không dễ chút nào, khi những ân oán giang hồ cũ không thể nào vơi đi được. Một mặc cảm tội lỗi nào đó vẫn đeo đuổi Ngài chăng, khi Ngài tận dụng những phỏng vấn dài dài để gài vào tương lai một nghi án rằng Ngài từng rất mực nể trọng những thi nhân học giả lỗi lạc này kia, lẽ nào chính Ngài đàn áp họ!? Lúc khác, cầm bút viết hồi ký, Ngài sống lại tư thế cầm quyền khi trước, tiếp tục gọi tất cả đám học giả thi nhân ấy là “bọn phản động”! Quả thật, cho tới khi đậy nắp quan tài, Ngài vẫn chưa thể “nói chuyện” lại được với những nạn nhân của mình trong giới cầm bút. Phía những nạn nhân cũ ấy cũng vậy: từ lúc được khôi phục, họ lên tiếng về mình ở nhiều chỗ khác nhau, trước những công chúng và đồng nghiệp khác nhau, trừ những công chúng và đồng nghiệp đã từng la ó và cùm kẹp họ. Ấy vẫn là một bất cập lịch sử của cả hai phía. Đám “quần anh Bắc Hà” xưa bị Ngài dìm xuống bùn, phải từ bùn gượng dậy, bằng sáng tạo mà trụ lại với đời, – đám người ấy nay còn hận Ngài chăng? Khó biết hết. Như bài Hoàng Cầm tiễn đưa Ngài đó! Chỉ phô cái tử tế ra mà thôi! Mà tử tế chưa phải là tất cả tâm địa người đời.

Cây bút nào sẽ viết truyện “chưởng” này nhỉ?
                                                                                          04/10/2010                                                             
Lại Nguyên Ân
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 14 trang (132 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối