(Tiếp theo 2)
Ý thơ và Lời thơ 3. Nguyễn Du, trong Kiều, ba lần dùng chứ “mây Tần”, chỉ có lần cuối cùng là duy lí:
Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa Duy lí vì trong câu này, “mây Tần” diễn tả niềm nhớ nhà của Thúy Kiều, theo câu thơ của Hàn Dũ đời Đường: “vân hoành Tần lĩnh gia hà tại” (mây ngang núi Tần, nhà ta ở đâu?). Còn hai lần khác, chữ mây Tần không có nghĩa duy lí, ngoài vẻ đẹp âm thanh dìu dặt.
Mây Tần khóa kín song the…
Mặc người mưa sở mây Tần… Chúng ta cảm giác là nó có nghiã, vì dựa vào mạch toàn câu thơ – hay đoạn thơ ) để gán cho “mây Tần” một ý nghĩa, chứ tự thân nó không quan hệ gì với mạch văn, mà chỉ là một hình ảnh, âm thanh đẹp.
Mây Tần khóa kín song the
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao Thơ: hoặc ta nhận nó, hoặc không nhận, chứ không nên diễn nghĩa (9) vì nó sẽ thành thô tháp, ngô nghê như: “không gặp được mặt nhau vì song the đã bị mây Tần khóa kín, thì đành gặp nhau trong giấc mộng vậy” (10): thì trâm gãy bình rơi bao giờ!!!. Chúng ta biết Nguyễn Du hành văn cẩn trọng, tránh điệp ý, ấy thế mà chỉ trong vòng ba mươi câu sau, dường như còn tiếc nuối một hình ảnh đẹp, đẹp mong manh như một đoá phù vân, nhà thơ hạ thêm một câu:
Song hồ khép cửa cánh mây… Trái với Trang Chu, thi nhân được lời phải quên ý: tiếc đây là tiếc lời, mây khóa song và song khép mây. Và nuối tiếc từ đời này sang đời khác. Hơn một trăm năm sau, Đinh Hùng còn chắp nối tơ thừa bằng những hình ảnh lãng mạn:
Em đi rồi then khóa cả chiêm bao
Gầy vóc mộng gói tròn manh áo nhớ Đường vào tình sử hay Đường vào ngôn sử?
Ô y, trong Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn, là quạ; trong bài “ngày xuân, nhiều én lượn” sẽ là én. Lấy điển tích, nói cho đúng hơn, lấy cái nghĩa cố định của điển tích mà bắt bẻ nhau, hay để biện hộ thì không phải là hưởng thụ thơ, cũng không chắc là thưởng thức văn chương. Mà là để khoe chữ.
Ở đời, có hai việc người quân tử nên tránh: thứ nhất là khoe giàu, thứ nhì là khoe chữ.
Ta van từng đóa hoa, thùy lệ
Cho ý thơ sầu vút cánh chim.(Đinh Hùng, Đường vào tình sử)
Ý trong thơ, khác với ý trong văn xuôi, ở chỗ nó không có giới hạn, không có kích thước. Tạm nói là nó mông lung, bất định. Văn xuôi mô tả ngoại giới, hoặc tâm giới, như một vữ trụ có sẵn từ trước, với những thành tố được sắp xếp theo một hệ thống nhất định. Mô tả thế nào cũng được, trực tiếp hay văn vẻ, cụ thể hay trừu tượng, miễn là đúng, miễn là ăn khớp với hệ thống của sự vật. Archimède, bằng văn xuôi, tả tất cả sự vật bảy nổi ba chìm với nước non bằng một định lý trừu tượng, gọi là định lý hình của văn xuôi, khi tả ngoại giới. Một trang sách tâm lý học, được xem như là điển hình của văn xuôi khi mô tả tâm giới.
Trong khi đó, thơ chỉ mượn của ngoại giới, hay tâm giới, những yêu tố để nhào nặn thành một thế giới mới tạm gọi là thi giới, có lúc tôi gọi là Vũ trụ thơ, tên sách, Sài Gòn, 1972. Nói khác đi, thơ thừa nhận sự vật có sẵn, mà không thừa nhận quan hệ có sẵn giữa sự vật; thơ chỉ gọi tên sự vật của ngoại giới để tạo nên một vũ trụ mới, bằng cách cấu trúc quan hệ mới giữa sự vật đã cũ.
Đêm trời sao cũ sáng long lanh. (Đinh Hùng, Đường vào tình sử)
Thi nhân dùng những vì sao cũ để làm nên ánh sáng mới, trong một tinh hệ mới, do mình cô sý hoặc tình cờ tạo dựng, Ý nghĩa của một câu thơ, bài thơ hay thi ca nói được nói chung, là thế giới nội tại trong tác phẩm. Nhận diện được thi giới đó, là hội ý với thơ mà không nhất thiết phải đồng ý với thi nhân. Vì khi thi giới đang hình thành, nó còn thuộc vào quyền năng sáng tạo của thi nhân, nhưng khi đã thành hình, thành tác phẩm, thì nó sống quy luật và đời sống riêng của nó, của ngôn ngữ. Như con chim đã trưởng thành.
Giông bão không nhất thiết phải là dụng ý của thượng đế.
Thơ một mặt phải sử dụng phương tiện ngôn ngữ sẵn có, mặt khác sử dụng hình ảnh sự vật cụ thể, nên trong lịch sử văn học ít có thơ trừu tượng mà chỉ có văn xuôi trừu tượng, như văn triết lý, khoa học… Thế giới của văn xuôi là thế giới khái niệm (conceptualisable), còn vũ trụ thơ là thế giới thực tại khả xúc (sensible). Trong hai tác phẩm xa xưa nhất của Đông phương, cụ thể là Kinh Thi, trừu tượng là Kinh Thư, vì thế giới trong Kinh Thi là khả xúc, còn Kinh Thư, khả niệm, là mối quan hệ xã hội. Văn xuôi như một tấm gương soi: ta chỉ nhìn ngắm sự vật phản chiếu trong gương soi, và nếu cần thì đập cổ kính ra tìm lấy bóng, chứ ta không nhìn tấm gương. Thơ, ngược lại, như một bức trạnh, ta yêu bức tranh hoa cúc không phải vì yêu hoa cúc, mà yêu đường nét, màu sắc làm nên bức tranh. Văn xuôi là một biểu hiện (representation) còn thơ là một hiện diện (présence).
Hiểu một câu văn xuôi, ta vẫn đứng ngoài; cảm một câu thơ, ta hòa đồng với nó. Yêu văn, ta là khách, yêu thơ ta là chủ. Yêu văn là yêu người, yêu thơ là yêu mình. Cảm thơ, hội ý với thi nhân, ta trở thành tri âm với nàng thơ, “ta bình đẳng với tác phẩm”, câu nói được truyền tụng từ họa sĩ Raphael. Yêu Lý Bạch, là nâng tâm hồn lên ngang với Trích Tiên – ít nữa cũng trong một thoáng phù du.
Câu thơ là một thoáng trần gian.
Vậy ý thơ có những đặc tính gì để tạo nên thi giới?
Thi nhân thường chuộng cảnh vật có thể thay đổi quan hệ, để dễ bề tái tạo. Họ mượn của ngoại giới các hình tượng như trăng, gió, vì đó là thức thể vô tính, hay là huyễn tính, có thể biến thành những chất liệu đa hiệu, xê dịch dễ dàng trong cấu trúc vũ trụ thơ; họ chuộng những âm đa nghĩa, hoặc mơ hồ để tạo ra kích thước co giãn cho lời nói, hoặc những từ lạ, chữ xưa để hoán chuyển không gian và thời gian trong câu thơ. Nói chung họ gán ghép các yêu tố bình thường vốn xa lạ với nhau, cho thi giới bừng hương sắc. Một ví dụ, cái chổi. Trong thi giới Hồng Đức, cái chổi không còn là một công cụ thực dụng, dơ bẩn hàng ngày:
Một phen vùng vẫy trời tung gió
Bốn cõi tung hoành đất sạch gai. Thi vị ở chỗ cái chổi bỗng dưng có hành tung hùng tráng, hoạt động cao cả, mà vẫn hòa đồng với ngoại vật, vì ngoại cảnh đây không phải là thực tế hàng ngày nữa, mà là môi trường mới, ta gọi là vũ trụ thơ. Ý thơ là vậy.
(còn tiếp)
ĐẶNG TIẾN.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..