Thơ là gì(tiếp theo 1)
2.Các nhà biên khảo đã đi đến chỗ đồng thuận: Về lý thuyết,
ngôn ngữ nói chung và văn xuôi nói riêng nhằm phục vụ một đối tượng trong đời sống hàng ngày. Thơ trái lại là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng. Về thực tế, khi đưa quan niệm này vào việc phân tích thi ca chúng ta lại phải dè dặt, vì bài thơ là một mô hình phức tạp. Cái nhìn khoa học không những cần phân tích hợp lý, mà còn cần tổng hợp nhất quán; lối nhìn đó là cần, nhưng chưa đủ để nắm bắt câu thơ.
Nói thơ là một ngôn ngữ tự tại không có nghĩa rằng: thơ không cần có ý nghĩa. Vì một từ ngữ, một câu bao giờ cũng có nghĩa nếu nó muốn là ngôn ngữ. Không làm gì có câu nói thật sự vô nghĩa.
Cũng không hàm ý rằng thơ không tương quan gì đến thực tế là thực tại xã hội. Không thể cô lập một câu thơ, và con người với xã hội, tách nó ra khỏi đời sống. Đây là hai điểm chính yếu, ta không nên ngộ nhận.
Những câu thơ ta cho là hay, dễ nhớ vẫn là những câu có nghĩa, có ý, có tình. Ở Tây phương, đã có nhiều trường phái chủ trương thơ vô nghĩa, đều bị bế tắc. Câu thơ phải có nghĩa mới là câu nói, mới làm ta chú ý. Ta có chú ý rồi mới thấy hay, càng đọc càng thấy hay, lâu ngày nhớ lại vẫn thấy hay.
Nhưng câu thơ hay đó tuy có ý nghĩa, nhưng không hay vì ý nghĩa, mà hay vì hơi nói, giọng nói. Khi câu thơ hay vì ý nghĩa thì có cái hay của văn xuôi (beauté prosaique) như một lời văn hoa mĩ, một lời nói khéo, ví dụ câu này của Hàn Mặc Tử:
Sao bông phượng nở trong màu tuyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu. Câu thơ này dịch ra tiếng nước ngoài khó, vì nhiều tu từ pháp, tiếng nước nào cũng có sẵn.
Nói khác đi, tương quan lời/ ý, cái biểu hiện/ cái được biểu hiện, (sigifiant/signififié) bị đảo lộn: trong lời nói thường và văn xuôi, lời là phương tiện của ý,
“được ý phải quên lời, như được cá quên nơm” (Trang Tử). Trong thơ, ý là phương tiện của lời trên hai phương diện: trong cấu trúc, ý nâng lời, tạo tương quan cho từ ngữ; ngoài cấu trúc ý làm môi giới giữa lời thơ và người đọc, người nghe. Câu thơ không có ý thì không có xương sống và không có độc giả, thơ không có ý
“như thuyển không lái, như ngựa không cương”, nhưng lái không phải là thuyền, cương chỉ là thành phần không chính yếu của ngựa. Thơ hay không phải tại ý, như ngựa thiên lý không phải nhờ vào dây cương, cho dù dây cương là cần thiết. Vì vậy mà thơ xưa từ Đông sang Tây, quay chung quanh các đề tài tuyết nguyệt phong hoa. Điều chính yếu trong thơ không phải là nói cái gì, mà là nói ra sao.
Vì trong thơ, ý là phương tiện của lời, nên người bình giảng thơ cần đặt lại chính xác quan hệ nội dung và hình thức. Nhất là khi bình giảng thơ trong nhà trường. Các thầy giáo, cô giáo từ bậc tiểu học phải biết dạy thơ. Con em lớn lên mới biêt yêu thơ, xã hội mới có thơ hay. Và đời sống con người tinh tế hơn.
Theo lối giảng thông thường của SGK, thì nội dung của bài
Thu điếu của Nguyễn Khuyến là việc đi câu cá mùa thu. Đúng không? dụng tâm của Nguyễn Khuyến khi làm bài thơ ấy có phải là để kể chuyện đi câu? hay ông chỉ mượn việc đi câu, mượn luôn cả cảnh ao thu, để làm một bài thơ đẹp? Phái duy lí có thể bẻ lại: Nguyễn Khuyến làm bài thơ đó để nói lên tâm hồn kẻ sĩ; vì tâm hồn cao đẹp nên bài thơ hay. Nghe không ổn, vì có phải thánh nhân đều là thi sĩ cả đâu. Và bao nhiêu thi sĩ Tư Mã Tương Như, Baudelaire chẳng hạn, là kẻ tầm thường, có khi còn tội lỗi. Vả lại, anh thích bài thơ đó, vì anh thích đi câu, anh thích mùa thu, hay vì bài thơ đó hay? Tóm lại, nội dung của bài thơ
Thu điếu là bản thể của lời thơ, hình thức của nó là ao thu, phương tiện của nó là đi câu.
Nói như trên có vẻ nghịch với lẽ thường. Nhưng chính
thơ là ngôn ngữ nghịch với lẽ thường. Vầng trăng làm sao mà “sẻ làm đôi” được? Làm sao có thể “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” được? Thi sĩ là kẻ phá vỡ tương quan của ý tưởng và thay thế vào đó tương quan của từ ngữ. Sự hoán chuyển phương tiện – mục đích, vẫn thường xảy ra trong thực tế; trở lại với thí dụ đi câu: con rô diếc là đối tượng của bác thợ câu, nhưng là phương tiện của ông Lã Vọng, đi câu là để đi câu. Cô hái chè lúc vươn tay thì cành chè là đối tượng; cô đứng chụp hình, tay vươn cành chè, thì cành chè là phương tiện để cô có bức hình đẹp. Cô đứng tự nhiên thì bức hình không tự nhiên, phải giả vờ vin vào cái gì đó thì bức hình mới tự nhiên. Ngôn ngữ thơ cũng vậy: nói tự nhiên, thì không ra thơ, phải nói một cách nào đó mới là thơ. Những câu thơ “tự nhiên thiên thành”, cũng tự nhiên một cách nào đó, trong một bối cảnh nào đó.
Bảo rằng thơ là cách nói, thi sĩ làm thơ để làm thơ, như kẻ đi câu để đi câu, không cần cá, phải chăng là từ chối mọi quan hệ giữa thơ và thực tế xã hội? Không phải vậy, những thi sĩ lớn cũng như những lý thuyết gia ngày nay, không còn mấy ai chủ trương hình thức vị hình thức.
Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xã hội và phục vụ xã hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào thì tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.
Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xã hội và phục vụ xã hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào thì tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.
Thơ bắt nguồn từ thực thế vì phải sử dụng ngôn ngữ hàng ngày đủ để chế biến, xáo trộn, vì ngôn ngữ vốn là phản ánh của đời sống. Thơ lại sử dụng những tình ý của con người, thì muốn dù không cũng phản ánh xã hội. Những thi phẩm lớn của ta, như Kiều, Cung Oán, Chinh phụ ngâm, đều mang ít nhiều đặc tính của xã hội. Gần chúng ta hơn, những nhà thơ tiến chiến “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” gặp lúc kháng chiến cũng đã “đốt cháy trong lòng mình những phong cảnh cũ” như lời Nguyễn Tuân, để chiến đấu và sáng tác. Gần hơn nữa, nhà thơ say Vũ Hoàng Chương đã từng sống giữa lòng đời như “cắm thuyền sông lạ”, năm 1963, đã đốt lên ngọn Lửa Từ Bi hùng tráng để soi sáng cho cuộc đổi thay xã hội.
Và nhìn chung thơ Hy Lạp, thơ Tày, thơ Tây đều mang đặc tính xã hội.
Thơ không chỉ phản chiếu tiêu cực mà còn ảnh hưởng tích cực đến tâm hồn con người. Bỏ qua quan niệm “thi dĩ ngôn chí” và “văn dĩ tải đạo” của nhà Nho, bỏ qua luôn quan niệm thơ phải phục vụ trực tiếp quần chúng, chúng ta vẫn gặp những nhà thơ lớn ca ngợi giá trị đạo lý của nhân loại Khuất Nguyên qua Đỗ Phủ, cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến. Những tác phẩm được truyền tụng là những bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm, thơ lánh đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm. . Còn thơ xu phụ quyền thế của 28 vì sao trong Tao Đàn thì không mấy ai biết tới. Trong khuôn khổ của xã hội phong kiến và tư tưởng nho giáo khe khắt, thơ vẫn không chịu gò bó trong tam cương ngũ thường, mà vươn tới cái đạo lớn của nhân loại, ca ngợi cái hùng, cái vĩ, bênh vực kẻ yếu, tố cáo bất công. Khi nói đến tình yêu trai gái, thơ gạn lọc tình cảm, cho nên những đoạn Kinh Thi ướt át nhất vẫn ngay thẳng như lời Khổng Tử. Bản chất thơ phải “tư vô tà”, đó cũng là một đặc tính chung cho các bộ môn văn nghệ khi vươn lên làm văn hóa, văn minh.
Vì thế ngày nay tại các nước công nghiệp tiên tiến, thơ vẫn là một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục, nhất là cấp tiểu học. Trẻ em học thơ để yêu tiếng nói, rồi từ đó yêu quê hương, loài người và cuộc sống.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu thơ, thưởng thức thơ từ lúc nằm nôi, nếu thi ca đóng đúng vai trò của nó dĩ nhiên là sẽ có tác dụng rộng lớn
Để kết luận, xin mượn lời Jakobson:
“Thi ca, so với những giá trị xã hội khác, tuy không vượt bực, không lấn lướt, vẫn là thành tố cơ bản của ý thức hệ, luôn luôn quy về một đối tượng. Thơ giúp ta khỏi trở thành máy móc, bảo vệ chúng ta chống lại sự han rỉ đang hăm dọa những công thức về tình yêu và thù hận, về phản kháng và hòa giải, về đức tin và phủ nhận”.(10)
Về những đóng góp của Jakobson xin đọc bài tiếp theo.
Dieppe, 7.1973,
đọc lại, Orléans 12.2008
ĐẶNG TIẾN.
----------------------------------------------------------------
Phụ chú 2006
Sách chuyên đề tiếng Việt sau 1973, đã xem lại:
- Hà Minh Đức :
Thơ và mấy vấn đề… 1974.
Một thời đại trong thơ ca, 1996, Và nhiều sách khác
- Phan Cự Đệ :
Phong trào thơ mới, 1982.
Văn học Việt Nam, 2004- Phan Ngọc :
Phong cách Nguyễn Du, 1985,và nhiều sách khác.
- Nguyễn Phan Cảnh:
Ngôn ngữ thơ,1987- Nguyễn Hưng Quốc:
Tìm hiểu nghệ thuật thơ, 1988
Nghĩ về thơ, 1990.- Mai Ngọc Chừ :
Vần thơ Việt Nam, 1991.- Nguyễn Xuân Kính :
Thi pháp ca dao, 1992.- Lê Đình Kỵ :
Thơ Mới… 1993.- Thụy Khuê :
Cấu trúc thơ, 1995- Nguyễn Bá Thành:
Tư duy thơ, 1996- Hữu Đạt :
Ngôn ngữ thơ Việt Nam, 2000.- Trần Đức Các, 1995; Nguyễn Thái hòa, 1997; Phan Diễm Phương, 1998, về thi pháp trong văn học dân gian
Chú thích:(1) Bremond,
La Poésie Pure, Nxb Grasset, Paris 1926
(2) Tạp chí
L’Homme, số II, 1, 1962, in lại trong
Question de Poétique, Roman Jakobson, Nxb Le Seuil, Paris, 1973, tr.401-419.
(3) Nguyễn Văn Trung,
Lược khảo Văn học, cuốn 2, Nam Sơn xuất bản, 1965, tr.72-82. Sài Gòn.
(4) Sđd, tr.16-34.
(5) In lần đầu tại Prague, 1921, in lại trong
Question de Poétique, Sđd, tr.14, và trong tạp chí
Poétique, số đặc biệt về Jakobson, 7-1971, tr.290.
(6) Jackobson, Question… sđd, tr.16; tạp chí Poétique, sđd tr. 290. Tôi chỉ chú nguyên văn những đoạn chính.
(7) Jackobson, Co-je Poésie, Prague 1933-1934, tr.70 in lại trong
Poétique,sđd, tr.308, và trong
Question de Poétique, sđd, tr.124.
(8) Lévi-Strauss,
Anthropologie Structurale, Plon, Paris 1958, Claude Lévi-Strauss nói “cuối cúng sót lại… xưa kia” vì muốn truy nguyên nguồn gốc và cơ cauas của ngôn ngữ, qua cơ cấu tổ chức thị tộc và hôn nhân các xã hội cổ sơ của Phi Châu, Nam Mỹ, vì theo ông liên hệ thị tộc và hôn lễ cũng là ngôn ngữ.
(9) A.J. Greimas,
Essais de Sémiotique Poétique, Nxb Larousse, Paris 1962, trang đầu.
(10)
Question de Poétique, Sđd, tr.125
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..