Copy vào đây một bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương hôm trước mình vừa đọc được.
Nguồn:
http://www.nhandan.com.vn...;sub=78&article=99716Thơ hôm nay, cần bóc tách để đánh giáND - Có lẽ chưa thời kỳ nào phong trào "làm thơ" lại rầm rộ như khoảng mươi năm trở lại đây. Các câu lạc bộ thơ được thành lập khắp nơi: từ phường, xã lên tới các tỉnh, thành phố. Nhưng không thể coi đó là dấu hiệu phát triển của nền thơ nước nhà.Năm 2006, đã thành lập CLB thơ cấp toàn quốc, lấy tên là Câu lạc bộ thơ Việt Nam. Ðại hội thành lập tổ chức tại Hà Nội, người làm thơ các địa phương trên cả nước về dự.
Tôi đã thấy tạp chí đăng sáng tác thơ của CLB này, tạp chí Hương Việt Nam, một số in tới 2.000 bài thơ của 1.300 tác giả, có in ảnh và ghi chú tiểu sử. Chưa thấy tạp chí ở đâu có dung lượng lớn như vậy, kể cả ở nước ngoài. Một tập tuyển dày nghìn trang, bìa cứng, khổ to, in thơ của các "thi huynh thi hữu" cũng đã được xuất bản. Chỉ riêng các tác giả có bài in mua mỗi người một cuốn thì lượng in cũng đã hàng nghìn bản.
Có CLB đã tổ chức hội thảo thơ của hội viên mình tại địa danh tiêu biểu Văn Miếu, tự đặt tên Hội thảo khoa học, cũng có tham luận về thân thế sự nghiệp, như hội thảo văn chương của các danh nhân cổ điển Nguyễn Du, Nguyễn Trãi...
Tất cả kinh phí hoạt động của các câu lạc bộ, từ đại hội đến họp hành, đi thăm các di tích, thắng cảnh đến in sách báo tạp chí, thuê hội trường hay "hợp đồng" truyền hình, đều do các hội viên nhiệt tình đóng góp. Phong trào hoàn toàn tự nguyện, tự phát, tự túc mà quy mô đến như vậy chứng tỏ lòng ngưỡng mộ thơ và khát vọng làm thơ của bà con ta lớn lắm.
Tầng lớp dân cư nào là lực lượng chủ chốt trong các CLB thơ đó? Thoáng nhìn thì thấy ở tầng lớp nào cũng có đại diện: người thành phố, nông thôn, già, trẻ, nam, nữ, cán bộ, bộ đội, thầy thuốc, thầy giáo... Nhưng nhìn kỹ thì thấy rất đông các cán bộ, bộ đội đã về hưu. Ðó là lớp người đã từng hiến dâng cả tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cho công cuộc xây dựng xã hội XHCN công bằng, với mục tiêu ai cũng có cơm ăn áo mặc và được học hành như mong ước tột cùng của Bác Hồ. Tuổi hưu của lớp người đáng kính ấy tìm đến thơ là một minh chứng cho vẻ đẹp, sức hấp dẫn của thơ. Nhưng trước hết, tôi lại thấy ở đây sức an ủi lớn lao của thơ. Thơ là chỗ dựa cao cả cho tâm hồn con người vào lúc họ cần được chia sẻ.
Tâm trạng của lớp cán bộ về hưu bây giờ cần những công trình thống kê, nghiên cứu. Ở đây tôi chỉ muốn nói vài cảm nhận phiến diện của riêng mình do việc tiếp xúc với các cụ trong nhiều câu lạc bộ thơ, kể cả câu lạc bộ của các cán bộ hưu cao cấp như Thăng Long ở Hà Nội, Bạch Ðằng ở Hải Phòng... Nhìn lại quá khứ, lớp người này thanh thản về những gì đời mình đã góp cho dân cho nước, nhưng không khỏi ưu phiền trước những mặt trái của cuộc sống hôm nay. Nhất là ở những con người nắng chia nửa bãi chiều rồi, không còn thời gian để làm lại. Họ đã tìm đến thơ. Họ đủ lịch lãm chuyện đời và cũng đủ kiến thức làm câu chữ. Họ là cán bộ, là bộ đội, là lớp người từng có cống hiến cho xã hội.
Với thơ, dù ở tầm mức nào của trình độ nghệ thuật, họ cũng xin được giãi bày, gửi bóng dáng của đời mình, gọi là tâm lý khẳng định sự có mặt của đời mình thì cũng đúng. Không phải khẳng định với toàn xã hội, mà trước hết với chính mình, với bè bạn cùng trang lứa, với con cháu trong nhà. Tôi kính trọng nguyện vọng thầm kín ấy của các cây bút nghiệp dư hôm nay. Và tôi hiểu được lý do nảy sinh và phát triển phong trào làm thơ đại chúng vốn hiếm thấy xưa nay lại diễn ra vào lúc này.
Ðó là một cuộc chơi chữ nghĩa tao nhã có tính xã hội. Nó giúp người ta sống sâu sắc hơn, kỹ lưỡng hơn. Hy vọng từ đó chúng ta có thêm độc giả cho thơ, tôi nói độc giả chứ chưa nói tác giả, và cũng là đặt trong hy vọng. Chúng ta hoan nghênh và nên có nghĩa cử ủng hộ sự hoạt động của các câu lạc bộ thơ ấy.
Nhưng không nên coi đó là dấu hiệu phát triển của nền thơ nước nhà. Từ cuộc chơi đại chúng ấy mang lại được một tỷ lệ thành tựu nào đáng được ghi nhận thì chắc chắn văn học sử sẽ không bỏ qua. Nhưng không nên đặt ra tiêu chí hàn lâm như một đòi hỏi với một phong trào làm thơ có tính đại chúng.
Ở đây không có vấn đề coi trọng hay coi nhẹ phía nào, mà chỉ đòi hỏi nên có quan niệm đúng với mục đích của từng công việc và có cách ứng xử thỏa đáng. Quả thật tôi hơi ngần ngại khi có vị tiến sĩ ngành sử, trong lúc cao hứng coi những bài thơ làm theo Ðường luật của các cây bút trong các câu lạc bộ như một bước phát triển của thơ Ðường Trung Hoa, mà ở nước Trung Hoa hiện nay không có được (!).
Trên báo Văn nghệ (số 26 năm 2007) có bạn kết tội mạo nhận khi ai đó gọi thơ làm theo luật Ðường của các câu lạc bộ thơ bây giờ là Thơ Ðường Việt Nam thế kỷ thứ 21. Tôi e kết tội thế là quá nặng. Không ai có ý định mạo nhận và mạo nhận cũng chả để làm gì. Nhưng, quả là có nhầm lẫn trong cách dùng từ (Nhầm thơ Ðường với thơ luật Ðường. Thơ luật Ðường thì ở Việt Nam có, còn thơ Ðường hay thơ Tống thì chỉ của riêng Trung Quốc). Hơn nữa, nhầm lẫn trong quan niệm: thơ luật Ðường của Nguyễn Khuyến, Tú Xương hay Tản Ðà, Quách Tấn thế kỷ 20 là thơ của các nhà thơ, nằm trong văn mạch có tính hàn lâm. Thơ của nhiều người bây giờ thì đại chúng, hồn nhiên, được coi như một thú chơi chữ nghĩa của những người không chuyên với thơ, trong nhiều trường hợp mới chỉ là sự phổ lời vào giai điệu sẵn có của niêm luật thơ xưa. Thú chơi ấy đáng được trân trọng nhưng đặt chung vào mặt bằng thơ các thế kỷ để luận về tiến trình thơ e khiên cưỡng, dễ gây lầm lẫn.
Sự lầm lẫn ấy lại xuất phát từ một thực trạng đáng vui là việc xuất bản thơ bây giờ khá dễ dàng. Ai cũng có thể in thơ mình, chỉ cần có tiền, mà tiền in thơ thì không đến nỗi vượt quá tầm tay của không ít người viết. Và khi đã xuất bản được dăm ba, thậm chí chín mười tập thơ, có người in hai ba tập một năm, người ta rất dễ tự tin.
Việc quảng bá giới thiệu thơ khó tránh khỏi quy luật quảng cáo tiếp thị. Quảng cáo thơ lại không nguy hiểm tức thời như quảng cáo thuốc, người ta rộng rãi lời khen cho vui cửa vui nhà. Chỉ đọc những lời biểu dương ấy thì tưởng như nước ta đang là một "đại cường quốc thi ca", mỗi tuần xuất hiện một nhà thơ tài năng. Tưởng thế mà đọc vào lại không phải thế, là sinh bi quan, chán thơ, xa thơ.
Hiện nay mỗi năm nước ta ước chừng có khoảng hơn nghìn tập thơ được xuất bản. Nếu quá hào hứng với con số ấy, coi nó như dấu hiệu phát triển của nền thơ đất nước thì chắc chắn cũng dẫn tới thất vọng và có cảm giác nền thơ nước nhà đang tụt dốc khi số tập đọc được chỉ chiếm một phần trăm số tập xuất bản và tỷ lệ tập khá, tập hay còn nhỏ hơn nữa.
Thật ra không phải thế. Chúng ta vẫn gặp những tập thơ hay, ít nhất là đọc được, và thường khi lại thuộc về những tên tuổi mới. Ðó là dấu hiệu của phát triển.
Ngay như lúc này, khi đọc những tập thơ xuất bản trong năm 2006, tôi không giấu được niềm thích thú và muốn khoe ngay để các bạn cùng chia sẻ hai tập thơ mà tên tuổi tác giả chưa phải đã quen lắm với công chúng yêu thơ: Trần Kim Hoa và Nguyễn Thị Ðạo Tĩnh. Cũng chỉ là một thí dụ ngẫu nhiên vừa lượm được. Còn đọc, chắc còn thấy nữa. Dù chỉ là thơ của một năm.
Ngay ở khuynh hướng đi tìm cái mới, có khi lập dị, nơi có nhiều tuyên ngôn vượt quá tài năng, hoặc có những người cố tình xả rác vào cõi thiêng liêng của sáng tạo tinh thần, làm bạn đọc thất vọng, cũng có những tác giả trẻ hoặc không còn trẻ lắm, giàu tiềm lực (thấy rõ tiềm lực trong bút pháp, trong cách tìm cảm hứng, cách tư duy thơ...). Họ chưa hội đủ những yếu tố thuyết phục công chúng, nhưng bạn đọc có căn cứ để kiên lòng chờ.
Ðánh giá thực trạng thơ, trong lúc mọi chuẩn mực, mọi tiêu chí của xã hội có nhiều biến động, thậm chí trái ngược với trước đây, rất cần những quan sát tỉ mỉ, bóc tách thật hư, lý giải công tâm... Ðấy là việc của nhiều người, có vai trò chủ chốt của Hội Nhà văn Việt Nam. Bài viết này chỉ là ghi vội một cảm nhận cá nhân, đề đạt một cách nhìn về thơ hôm nay của chúng ta.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.