KIM LĂNG HOÀI CỔ Kim Lăng Kim Trấn cổ danh khu Kim khí lâm li kỷ độ thu Lâm vật dĩ di tân tập thượng Trâm anh bất tự cựu phong lưu Mạc sầu hồ yểu nha đề nguyệt Huy phiến than thê tiễn độ lâu Thiên tạm hiểm tồn Song Tạ khứ Thùy y bách vạn mã tiên đầu
ĐỀN KIM LĂNG NHỚ XƯA Kim Lăng nguyên là Kim Trấn một địa phương có danh tiếng từ xưa Chất “kim” dầm thấm mảnh đất này đã bao thu rồi Cảnh vật và phong tục của người dân đã đổi mới Nhưng trang sức áo mũ không còn được phong lưu như xưa Chớ buồn vì tiếng quạ kêu trăng dưới lòng hồ Phất quạt hóng mát trên bãi cát ít khi sang chơi lầu bên kia sông Con hào thiên nhiên hiểm trở còn đó nhưng anh em nhà họ Tạ đã đi xa Lấy ai cầm roi ngựa chỉ huy trăm vạn quân?
Kim Lăng Kim Trấn danh khu Chất “kim” thấm đậm bao thu đất này Cảnh quang phong tục đổi thay Còn đâu áo mũ những ngày xa xưa Chớ buồn tiếng quạ dưới hồ Quạt tay, ít dịp ngâm thơ bên lầu Hào đây, Song Tạ còn đâu Lấy ai quất ngựa dẫn đầu ba quân
VÃN PHỎNG NAM KINH CỔ THÀNH (Đây là bài thơ cuối cùng trong “Mặc Trai Sứ tập” và có lẽ cũng là một trong những bài thơ cuối đời của Hoàng Giáp Đinh Nho Hoàn).
Huề bộc phù lê phóng cổ thành Huy tà chung vãn khổ dư tình Tiếu lâu xuân khứ dương yên bạc Họa giốc thu thâm thú mộng kinh Hồng vũ phiên hàn vân nhất thúy Sùng Trinh cung mã nguyệt tam canh Viên lâm hoa thảo ta tiêu lộc Dạ dạ Trường Giang ám yết minh
CHIỀU MUỘN ĐI THĂM THÀNH CỔ NAM KINH Chống gậy đưa theo người hầu đi thăm thành cổ Trong ánh tà dương tiếng chuông chiều muộn làm buồn lòng ta Xuân đã đi qua trên vọng lâu, khói mờ cành dương còn đọng lại Nghe tù và thổi lệnh, người lính thú choàng tỉnh mộng chiều thu Đời Hồng Vũ ngoài biên cương mây xanh một dải Năm Sùng Trinh quân kỵ xuất chiến giữa canh ba Giữa vườn rừng hoa và cỏ, con hươu thở dài buồn bã Sông Trường Giang đêm đêm vẫn vẳng tiếng thì thầm.
Ngắm thành, hầu cận, gậy cùng ta Chuông điểm buồn thay dưới ánh tà Xuân vãn vọng lâu mờ áng khói Chiều tàn lính thú tỉnh tù và Biên cương Hồng Vũ mây trời biếc Quân kỵ Sùng Trinh trận chiến xa Hoa cỏ vườn rừng hươu đứng lặng Trường Giang đêm vắng nước bao la
Lên thành chống gậy cùng hầu Tiếng chuông chiều muộn thêm sầu lòng ta Vọng lâu khói đọng xuân qua Lính canh nghe tiếng tù và choàng nhanh Biên cương Hồng Vũ mây xanh Sùng Trinh cung ngựa chiến chinh đêm trường Hươu buồn hoa cỏ giữa vườn Đêm đêm tiếng sóng Trường Giang thì thầm
THẤT NGUYỆT THẬP THẤT NHẬT NGỘ MẪU THÂN KỴ NHẬT CẢM TÁC
(Trong bài có nhắc đến “Lục nga” là tên bài thơ nổi tiếng trong “Kinh thi” nói lên tình cảm của người con nhớ thương cha mẹ)
Khả lân tam tuế thất huyên đường Hiếu cảm kim triều hựu dị hương Lữ thứ thống vô tam điện giả Bồng song khắp tận nhất chi hương Vân noa mã thủ gia hà tại Lệ thấp chinh khâm ý bội thương Độc biến Lục nga hôn tự mộng Trung quân hoặc diệc hiển thân phương
Đáng thương cho con từ năm lên ba đã mồ côi mẹ Trong lòng kính nhớ nhưng sáng nay con còn ở chốn quê người Đường xa đau lòng không được rót ba chén rượu cúng mẹ Bên cửa sổ căn nhà khóc thầm tàn một nén nhang Mây xòa xuống sát đầu ngựa, nhà ta ở phương nào? Lệ rơi ướt vạt áo kẻ đường xa, tình cảnh buồn thương bội phần Ngâm hết bài thơ “Lục nga” tâm hồn như rơi vào giấc mộng Phải chăng trung với vua cũng là cách làm cho cha mẹ được vẻ vang?
Mẹ mất lên ba, thật đáng thương. Sáng nay kính nhớ, vẫn trên đường. Xa nhà vái vọng không ly rượu, Bên cửa khóc tàn một nén hương. Đầu ngựa mây nhòa, quê khuất nẻo, Vạt tà lệ đẫm, cảnh thê lương. "Lục nga" ngâm hết, chừng đang mộng, Trọn hiếu trong trung cũng lẽ thường.