和郭主簿和澤周三春,
清涼素秋節。
露凝無遊氛,
天高肅景澈。
陵岑聳逸峰,
遙瞻皆奇絕。
芳菊開林耀,
青松冠巖列。
懷此貞秀姿,
卓為霜下傑。
銜觴念幽人,
千載撫爾訣。
檢素不獲展,
厭厭竟良月。
Hoạ Quách chủ bộHoà trạch chu tam xuân,
Thanh lương tố thu tiết.
Lộ ngưng vô du phân,
Thiên cao túc cảnh triệt.
Lăng sầm tủng dật phong,
Dao chiêm giai kỳ tuyệt.
Phương cúc khai lâm diệu,
Thanh tùng quán nham liệt.
Hoài thử trinh tú tư,
Trác vi sương hạ kiệt.
Hàm trường niệm u nhân,
Thiên tải phủ nhĩ quyết.
Kiểm tố bất hoạch triển,
Yêm yêm cánh lương nguyệt.
Đáp quan chủ bộ họ QuáchThời tiết thuận hoà suốt ba xuân (ba tháng mùa xuân),
(Thì) tiết mùa thu mát mẻ, trong trẻo.
Sương ngưng đọng không có hơi phiêu du,
Trời cao cảnh thu trong trẻo, sáng sủa.
Gò đất có ngọn vút cao,
Từ xa ngắm (cảnh) tuyệt đẹp và lạ.
Cúc thơm soi sáng khu rừng,
Tùng xanh vượt trội các loài nơi vách núi.
Ôm trong mình vẻ trinh tú này,
Chính là anh kiệt ở dưới sương.
Uống rượu nghĩ tới những người ẩn sĩ,
Ngàn đời đây (tùng cúc) là bí quyết (tu ẩn) của các người. (Tùng cúc là bạn của ẩn giả)
Không nhận, mở thư từ (của người đời),
An dật mãi cùng với vầng trăng tốt lành.
hoà trạch: hoà là thuận hoà, ở đây chỉ về thời tiết, trạch là cái ao, hoà trạch ở đây muốn nói thuận hoà dồi dào không hết. Nói "hoà trạch" cũng tương tự như "ân trạch" 恩澤.
tố thu: mùa thu, tố là màu trắng. Theo ngũ hành, tây hướng bạch (màu trắng), mùa thu thuộc hướng tây, vì vậy gọi là tố thu.
du phân: khí sương phiêu du. "Thu hứng phú" 秋興賦 của Phan Nhạc 潘岳 đời Tấn: "Du phân triêu hưng, Cảo diệp tịch vẫn" 遊氛朝興,槁葉夕殞 (Khí sương buổi sáng bay khắp, Lá khô ban đêm rụng xuống).
túc cảnh: cảnh mùa thu. Hán thư, Lễ nhạc chí: "Thu khí túc sát" 秋氣肅殺 (Khí thu se sắt tiêu điều).
phương cúc khai lâm diệu: câu này được Hoàng Văn Hoán 黃文煥 đời Minh giải nghĩa là thu đến cảnh tiều tuỵ, khí trời u ám, rừng tối tăm, chỉ có thứ hoa thơm này cũng đủ khai thông cảnh sắc, là ánh sáng của cả khu rừng.
trinh tú: kiên trinh và anh tú. Hậu Hán thư: "Phu tùng trúc trinh tú, kinh hàn thử nhi bất suy; Du liễu hư kiêu, tận nhất thì nhi linh lạc" 夫松竹貞秀,經寒暑而不衰;榆柳虛橈,盡一時而零落 (Nam nhi trinh tú như tùng trúc, qua nóng lạnh không thay đổi; Còn du liễu như mái chèo rỗng, hết thời sẽ rơi rụng mất).
trác vi sương hạ kiệt: thơ Tô Thức có "Cúc tàn do hữu ngạo sương chi" 菊殘猶有傲霜枝 (Hoa cúc khi tàn vẫn còn cành ngạo nghễ trong sương). Trong "Hồng lâu mộng", bài "Cung cúc" 供菊 có "Sương thanh chỉ trướng lai tân mộng" 霜清紙帳來新夢, hai chữ "sương thanh" chính là từ câu này, chỉ hoa cúc.
kiểm tố: hay giản tố 簡素, tức thư tín.
yêm yêm: yên tĩnh, an dật.
lương nguyệt: vầng trăng tốt lành, trăng cuối thu.
Bài này có rất nhiều từ rất đắc địa, dịch nghĩa đã khó diễn tả được ý rồi chứ chưa nói dịch thơ. Đoạn dưới đây chỉ là mình muốn đưa bài này lên TV nên phải cố thôi, chứ cũng biết là làm hỏng hết bài thơ :D
Hoà thuận suốt ba xuân,
Thu trong trẻo muôn phần.
Sương đọng hơi không tản,
Trời cao cảnh sáng trong.
Gò cao ngọn chót vót,
Xa ngắm đẹp vô vàn.
Rừng sâu hoa cúc sáng,
Vách núi trội tùng xanh.
Ôm trong mình trinh tú,
Anh kiệt ngạo trong sương.
Hớp rượu nhớ ẩn sĩ,
Đây bí quyết ngàn năm.
Thư tín không nhận, mở,
An dật với trăng lành.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.