– Nơi vũ trụ có ba ngôi tối cao đó là TỔ TIÊN KHAI HOÁ, ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ. Ba đấng tối cao này không những tối đại linh thiêng, chỉ cần thành tâm nghĩ đến là ứng nghiệm linh ứng ngay, mà còn là ba đấng quyền lực vô biên, quyền năng vô hạn. Không những khai tạo lập lên vũ trụ, tạo lập lên tam thiên đại thiên thế giới, các tầng trời, trần gian, cũng như các tầng địa phủ, mà còn tạo lập lên tất cả sự sống, nhất là khai tạo ra con người, giống động vật cao cấp nhất vũ trụ, nòi giống Tiên Rồng, nòi giống thay thế ông cha làm chủ vũ trụ, tạo lập lên cảnh giới thiên đàng cực lạc. – Thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN là thời kỳ TỔ TIÊN hiện thân ra con người, hiện thân ra ĐỨC CHA TRỜI, THIÊN HOÀN, hiện thân ra ĐỨC MẸ TRỜI, ĐỊA MẪU HOÀN. Như vậy thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN là thời kỳ TỔ TIÊN HOÀN, THIÊN HOÀN, ĐỊA MẪU HOÀN, thời kỳ hiện thân ra rồi HOÀN TRỞ LẠI, ví như nước hiện ra bọt nước rồi từ bọt nước tan biến trở về là nước. Có thể nói thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN ra đời, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người cho đến khi kết thúc kéo dài hơn một nghìn mấy trăm năm. – Còn HẬU TAM HOÀN là nói về con cái nhà TRỜI, làm vua làm chúa khắp cùng vũ trụ THIÊN HOÀNG NGỌC ĐẾ, MẪU HOÀNG VƯƠNG MẪU, TIÊN HOÀNG TIÊN CHÚA, nói chung là thời kỳ NHƠN HOÀNG. Sau TAM HOÀN, Thời kỳ hậu TAM HOÀN là thời kỳ NHƠN HOÀNG, 100 NGƯỜI CON CỦA TRỜI, TIỀN TỚI THỜI KỲ PHÂN CHIA NGŨ ĐẾ: 1- LÀ THANH ĐẾ, DA CHÀM. 2- LÀ BẠCH ĐẾ, DA TRẮNG. 3- LÀ XÍCH ĐẾ, DA ĐỎ. 4- LÀ HẮC ĐẾ, DA ĐEN. 5- LÀ HOÀNG ĐẾ, DA VÀNG Người đời sau nhầm tưởng Tam Hoàng, Ngũ Đế Thời Tổ Tiên Khai Hoá hiện thân ra Cha Trời, Địa Mẫu sanh ra Ông Bà Tổ Tổ Tổ của nhân loại năm màu da anh em với thời kỳ đầu tiền của lịch sử Trung Quốc (2852 – 2205 TCN). (xem kinh Long Hoa Thiên Tạng sẽ rõ).
THỜI KỲ CUỐI MỖI TIỂU KIẾP ĐẾN ĐẦU TIỂU KIẾP THỨ 9
Cuối các Tiểu Kiếp thời Thuỷ Tai nổi lên huỷ diệt nhân loại con người, những người sống sót trở thành người Nguyên Thuỷ thời sơ khai Hồng Hoang. Thời Sơ Khai Hồng Hoang kéo dài 1 triệu năm thời chuyển sang giai đoạn Hồng Hoang. Giai đoạn Hồng Hoang kéo dài 1 triệu năm rồi chuyển sang giai đoạn Thượng Hồng Hoang, kéo dài 1 triệu năm là chấm dứt thời Hồng Hoang kéo dài tổng cộng 3 triệu năm. Chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn thời Hồng Nguyên. Sơ Khai Hồng Nguyên, Hồng Nguyên, Thượng Hồng Nguyên kéo dài 3 triệu năm như thời Hồng Hoang. Kết thúc giai đoạn Hồng Nguyên. Thời chuyển sang thời Sơ Khai Hồng Bàng kéo dài 1 triệu năm, qua thời Sơ Khai Hồng Bàng là thời Hồng Bàng kéo dài 1 triệu năm, thời chuyển qua Thượng Hồng Bàng kéo dài hết kiếp tăng, sang qua đầu kiếp giảm. Đi vào Thượng Ngươn Thượng Kiếp. (Cuối kiếp tăng – đầu kiếp giảm. Giữa tiểu kiếp là đỉnh cao tuổi thọ muôn loài vạn vật, trong đó có tuổi thọ nhân loại con người lên đến 8 muôn 4 nghìn tuổi, đại thọ con người 100 nghìn tuổi, hoặc cao hơn nữa) Thượng Hồng Bàng là giai đoạn cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm. Có nghĩa Thượng Hồng Bàng ở hai giai đoạn cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm. Hết thời Thượng Hồng Bàng kiếp giảm, thời chuyển tới giai đoạn Hậu Hồng Bàng. Giai đoạn Thượng- Hậu Hồng Bàng ở kiếp giảm kéo dài 5 triệu 4 trăm nghìn năm, tới giai đoạn thời Hồng Chúa, thời Hồng Đế kéo dài gần 3 triệu năm, rồi chuyển sang giai đoạn thời Viêm Đế Thần Nông. Những giai đoạn chuyển hoá thời kỳ của một tiểu kiếp theo định luật huyền cơ vũ trụ lần lượt trải qua cứ như vậy, theo chu kỳ ở những tiểu kiếp tiếp theo, tiểu kiếp thứ 6, thứ 7, thứ 8, thứ 9, thứ 10. Và cứ thế, chu kỳ tuần hoàn của một tiểu kiếp 16 triệu 8 trăm nghìn năm, và những tiểu kiếp kế theo, tiểu kiếp nào cũng như tiểu kiếp nào không khác nhau là mấy, chu kỳ lặp đi lặp lại. Cũng như hết ngày rồi lại tới ngày, hết năm rồi lại tới năm. Cũng như Xuân – Hạ – Thu – Đông của mỗi năm. Quy luật tuần hoàn lặp đi lặp lại không khác, năm nào cũng như năm nào, bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông không khác nhau là mấy. Sự lặp đi lặp lại tiểu kiếp trước, tiểu kiếp sau quy luật tuần hoàn khá giống nhau. Nhân loại Thuỷ Tổ Hồng Hoang đầu kiếp tăng rồi đến hết kiếp tăng, chuyển sang kiếp giảm rồi đến hết kiếp giảm của một tiểu kiếp, cũng như các tiểu kiếp kế tiếp theo. Khi tuổi thọ trung bình hạ xuống chỉ còn 10 tuổi, yểu thọ 1 tuổi, đại thọ 20 tuổi là kết thúc một chu kỳ tiểu kiếp, rồi lại chuyển sang tiểu kiếp mới. Ở đầu tiểu kiếp mới, cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi vào kiếp tăng và tăng mãi lên đến 8 muôn 4 nghìn tuổi, đạt đỉnh của kiếp tăng thời bắt đầu hạ trở xuống, tức là kiếp giảm. Cứ 100 năm hạ giảm xuống 1 tuổi và hạ mãi, cho đến khi tuổi thọ trung bình nhân loại con người chỉ còn 10 tuổi, yểu 1 tuổi, thọ 20 tuổi, thời kết thúc giai đoạn tuần hoàn của một tiểu kiếp. Ở kiếp tăng có ba giai đoạn chính: thời Hồng Hoang, thời Hồng Nguyên và thời Hồng Bàng. Cho đến thượng Hồng Bàng kéo dài hết kiếp tăng sang qua kiếp giảm, Thời Thượng Thượng Hồng Bàng đi vào Thượng Ngươn Thượng Kiếp. Thời sơ khai Nguyên Thuỷ Hồng Hoang là thời kỳ đầu kiếp tăng của tiểu kiếp, nhân loại khắp các châu lục rất ít vì bị kiếp nạn Thuỷ Tai huỷ diệt, nhân loại sống sót còn lại không được bao nhiêu, mười phần chỉ còn một phần sống sót chuyển sang đầu tiểu kiếp mới sanh sống. Có nghĩa là: Nhân loại ở vào giai đoạn cuối tiểu kiếp bị kiếp nạn Thuỷ tai huỷ diệt trong một nghìn năm, mười phần chết hết bảy còn ba. Sau một nghìn năm Thuỷ Tai giảm dần nhưng vẫn còn mạnh kéo dài thêm hai nghìn năm, Nhân loại sống sót còn lại chỉ một phần. Chín phần nhân loại con người bị Thuỷ Tai huỷ diệt thì những Linh Hồn hành ác trở thành những Linh Hồn Ác Quỷ, Linh Hồn Ác Ma sa đoạ xuống các tầng Địa Phủ. Còn những Linh Hồn còn chút Lương Tâm Lương Tri không sa đoạ xuống các tầng Địa Phủ mà ở lại chốn trần gian, thành Ma sống trong cảnh giới Âm Cảnh, hình thành lên nhiều nước Ma. Những Linh Hồn không còn lương tâm, lương tri sa đoạ xuống các tầng Địa Phủ nhưng may mắn trốn thoát trở lại trần gian, hình thành lên nhiều nước Quỷ. Cứ mỗi chu kỳ sau giai đoạn Hoả Tai, Phong Tai, Thuỷ Tai, huỷ diệt nhân loại con người thời hình thành thế giới nước Ma, nước Quỷ. Nhất là sau giai đoạn Thuỷ Tai đầu của các tiểu kiếp, khắp các châu lục hình thành lên nhiều nước Ma, nước Quỷ tranh bá cùng nhau trải qua 1 triệu năm. Tới giai đoạn Thượng Đại Sơ Khai Hồng Hoang- Giai đoạn đi lần đến kết thúc thời Sơ Khai Hồng Hoang- Thời kỳ chúa tể Quỷ Vương, Ma Vương ra đời tranh bá với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Thời kỳ đỉnh cao cực thịnh của chúa tể Quỷ Vương, Ma Vương, chúa tể Yêu Tinh, Quỷ Dữ, cũng như A Tu La, Dạ Xoa. Thời kỳ A Tu La, Dạ Xoa cùng Yêu Tinh, Quỷ Dữ làm chủ địa cầu và tiến đánh lên Non Tiên Cực Lạc tranh giành với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở Địa La Bảy Núi, Thiên La Tu Di Sơn, Thượng Đà La trên đỉnh núi Tu Di, nơi Ngọc Hoàng Thượng Đế Ngự Trị. Ma Vương, Quỷ Vương, Yêu Tinh, Quỷ Dữ, A Tu La, Dạ Xoa cùng vô số Yêu Tinh, Quỷ Dữ khác bị Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở Thượng Đà La, Thiên La, Địa La, đánh bại. Bắt Linh Hồn Yêu Tinh, Ma, Quỷ, A Tu La, Dạ Xoa lộng hành gây rối hỗn loạn trật tự vũ trụ, giam xuống các tầng Địa phủ và cho chúng Quỷ Thần cai quản. Thập Điện Minh Vương cũng từ đó ra đời thống trị Ác Quỷ, Ác Ma, Yêu Tinh, Quỷ Dữ khắp toàn cõi Âm Phủ, cũng như hình thành lên vô số Địa Ngục ở khắp các tầng Địa Phủ. Nơi các Tầng Địa Phủ, Thập Điện Minh Vương ra đời thống trị Yêu, Tinh, Quỷ Dữ, Ác Ma, Ác Quỷ, ở cuối thời thượng đại sơ khai Hồng Hoang tiểu kiếp thứ 6. Nhân Loại Hồng Hoang chuyển sang giai đoạn mới, Niên Đại Hồng Nguyên ra đời. Đức CHA TRỜI dạy: Này hỡi các con của ta, ta sanh ra các con và cũng ban cho các con một mỏ ác, một mỏ thiện. Mỏ Ác trên Đầu các con. Mỏ Thiện Chính Là Lương Tâm các con. Nếu các con chỉ biết mình thời các con khai trúng mỏ ác, thời ác ròng sẽ tuôn ra làm hại các con, chôn vùi linh hồn các con vô lượng ức kiếp nơi các tầng Địa Phủ. Dụng cụ để khai ra mỏ ác đó chính là Chủ Nghĩa Cá Nhân chỉ biết mình, chủ nghĩa của tham tàn bạo ác, độc tài độc trị. Vì thế các con hãy từ bỏ chủ nghĩa cá nhân, luôn nghĩ về nhân loại, từ bỏ tham tàn bạo ác, chấm dứt độc tài độc trị, và ghê tởm chúng như ghê tởm một sự xấu xa nhất. Các con sống theo Lương Tâm, Lương Tri, sống theo Nhân Tính con người thì đó chính là kho tàng Phước Đức. Không những đem lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình, họ tộc, mà còn làm cho xã hội, non sông Tổ Quốc hưng thịnh, thời các con mới tránh khỏi kiếp nạn diệt chủng lẫn nhau. Thời Mạt Vận, Mạt pháp, Mạt Kiếp chính là thời Hạ Ngươn trùng lặp Hạ Ngơn. Bóng u minh trùm xuống chốn trần gian, trong khi nhân loại con người lạc Cội lạc Nguồn. Chính sự lạc Cội lạc Nguồn đó dẫn con người lạc vào Ác Đạo. Mẹ đẻ sanh ra Chủ Nghĩa Cá Nhân dẫn đến tàn bạo, độc tài, độc trị, tàn ác vô cùng. Phần lớn những kẻ tham tàn bạo ác, độc tài quá nặng, không còn Lương Tâm Lương Tri, mất hết Nhân Tính trở thành kẻ tội nhân thiên cổ, chính linh hồn của họ đã trở thành linh hồn ác Quỷ, ác Ma hung tàn bạo ác vô cùng. Cũng là lúc kiếp nạn tam tai nổi lên huỷ diệt con người, mười phần hết bảy còn ba, hết hai còn một. Một phần còn lại chính là những người thiện tâm, trở thành Thuỷ Tổ Nguyên Thuỷ Hoang Sơ. Thuỷ Tổ Nguyên Thuỷ Ăn Lông Ở Lỗ. Thuỷ Tổ Nguyên Thuỷ Hồng Hoang (xem Kinh Sau thời Hậu Đế sẽ rõ) Trải qua các thời kỳ, cứ cuối tiểu kiếp huỷ diệt và lập lại của Luật Tuần Hoàn Vũ Trụ thì cho đến cuối tiểu kiếp thứ 8 mực nước biển dâng cao, nhấn chìm vô số hầu hết các nước trên toàn thế giới, nhân loại phải di cư lần đến những vùng đất cao, bỏ lại sau lưng bao nhiêu là thành thị thôn quê và đời sống khoa học vật chất hiện đại, vì tất cả giờ đây đã ngập chìm trong biển nước. Nền văn minh vật chất kéo dài hơn mười nghìn năm đã bị huỷ diệt hoàn toàn và đi vào kết thúc. Nhân loại còn sống sót ở trên các dãy núi cao khắp mặt địa cầu. Đến đầu tiểu kiếp thứ 9 trở thành người Thượng Cổ ở hang, ở động, ở lỗ, sống chung bầy đàn. Đầu tiểu kiếp thứ 9 là thời kỳ kiếp tăng, tuổi thọ thuỷ tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi, tức là đã trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm của một tiểu kiếp 16 triệu 8 trăm ngàn năm. Đến đây là hết kiếp tăng vào đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng. Giai Đoạn này là giai Đoạn Khí Tiên Thiên liên thông xuống trần gian, vì thế người Tiên xuống trần dạo chơi, ăn ở với người trần sanh con đẻ cái. Vào thời kỳ này, không những con người các loại cầm thú, bò sát, thảo mộc tu luyện pháp thuật thần thông rất cao, dễ đắc được nhị xác kim thân, có thể bay đến Hạ Thiên Vũ Trụ để dạo chơi, thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Văn Minh Thiên Tiên, Pháp Thuật Thần Thông
Trong giai đoạn Hồng Bàng kiếp giảm, cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, giảm mãi xuống khi nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi là chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa. Khi Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi thì chuyển sang giai đoạn Hồng Đế. Giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi thì đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế(giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế đều nằm trong niên đại Hồng Bàng). Giai Đoạn này Khí Tiên Thiên không còn, thay vào đó là khí hoá Hậu Thiên ra đời cắt đứt sự liên thông giữa trần gian và năm non bảy núi, cũng như các cõi trời. Nhân loại trần gian muốn về trời khó khăn không còn như thời đầu mỗi tiểu kiếp. Con người tu luyện để đạt nhị xác kim thân Thiên Tiên khó vô cùng. Con người tu luyện chỉ đạt được cảnh giới Địa Tiên, riêng chỉ có Đức Chí Tôn Lâm Phàm với Thần thông trí huệ mới có thể đạt được cảnh giới của nhị xác kim thân Thiên Tiên. Vào Giai đoạn này gọi là Văn Minh Địa Tiên, Khí Đạo Quyền Pháp. Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng Hồng Nương hạ sanh quý tử khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh tài trí khác phàm tên là Hồng Viêm. Lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói: Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần mở ra thời đại mới. Các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặt tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, sau này trở thành nhà Bác Học nông nghiệp đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công thâu góp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy; giống ngô, khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng; lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng suất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai, đem lại sự no cơm ấm áo cho con người. Khi lên ngôi thay cha, Hồng Viêm đổi từ niên hiệu Hồng Đế chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG truyền xuống được 10 đời. Tới đời thứ 10 Viêm Đế Thần Nông, Đế Nương một hôm ngủ say trong giấc chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thì bà mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhuỵ thì trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Vì vậy Viêm Đế Thần Nông đời thứ 10 đặt tên cho cháu là Đế Tôn Long Đế. Đế Tôn Long Đế càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân. Dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế- Đức Sùng Lãm lên ngôi thay ông nội trị vì thiên hạ, đổi niên hiệu từ Viêm Đế Thần Nông chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Giai đoạn niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG truyền được 9 đời, đồng danh hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG.
NGUỒN GỐC CỦA NAM KINH XÍCH QUỶ GIAO CHỈ
Kinh Dương Vương đời thứ Nhất Đế Tôn Long Đế- Đức Sùng Lãm không những có tài mở mang về Nông Nghiệp mà còn có tài Bác Học phát minh ra nền Văn Hoá Giao Tiếp, Hội Hoạ và các dấu hiệu Ra Ni, thành văn pháp thay cho lời nói. Nhờ phát minh ra nền Văn Hoá Giao Tiếp, gởi thông điệp cho nhau qua tấm da thú, đưa con người xích lại gần nhau, hiểu nhau dù cách xa hàng nghìn dặm, hình thành tính cách ngoại giao với nhiều Bộ Tộc, Bộ Lạc, trao đổi thông tin cho nhau. Đến đời Kinh Dương Vương thứ 4, Vương Hậu Nương Nương khi sắp sanh liền thấy một con Rồng vàng to lớn đến chào Bà, sau đó không bao lâu Bà chuyển dạ sinh ra Quý Tử. Vì vậy nên KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ tư đặt tên cho con là Long Nhi. Long Nhi lớn nhanh như thổi, thông minh kỳ lạ, học đâu nhớ đó, võ nghệ siêu quần, triệt hạ đàn Sư Tử dễ như chơi, phóng lao vài dặm chẳng ai qua, đi dưới nước như đi trên khô. Ở vào thời kỳ ấy đã có một số ít Bộ Tộc hình thành, dọc theo Nam sông Trường Giang nhưng bị Thuồng Luồng, Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Hổ Quỷ sát hại. Trong số các Bộ Tộc sống rải rác, Bộ Tộc Kinh Hoa là bị lũ Ác Quỷ sát hại nhiều hơn cả. Vì sống không nổi với bầy lũ Quỷ nên gởi thông điệp về cho Kinh Dương Vương với năm bức hoạ tiết mang thông điệp như sau: Bức thứ nhất: Hoạ tiết đất bằng, đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc trồng lúa, trồng ngô. Bức thứ hai: Hoạ tiết nói lên nơi đây có nhiều loài Thuỷ Quái hung dữ như Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ. Chúng theo bám con người tàn sát dữ dội. Bức thứ ba: Hoạ tiết nói lên các loài Thuỷ Quái phá hại mùa màng, có phép thuật vô cùng lợi hại như đi gió về mây, gây ra cảnh lụt lội tàn phá cuộc sống của dân. Bức thứ tư: Hoạ tiết Kinh Dương Vương đem quân đánh Quỷ, đuổi chúng đi nơi khác hoặc tiêu diệt chúng. Bức thứ năm: Hoạ cảnh nói lên sau khi dẹp xong loài Thuỷ Tộc, Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ, dựng lên đất nước giàu có, ấm no hạnh phúc. Nói về Long Nhi, lớn lên trở thành Long Vương Tử tài đức song toàn. Kinh Dương Vương xem xong 5 bức thông điệp do Bộ Tộc Kinh Hoa gởi đến, Kinh Dương Vương xem tới đâu gật đầu tới đó nhưng không có ý kiến gì, mà đưa 5 bức hoạ tiết thông điệp cho Long Vương Tử xem. Long Vương Tử xem xong lấy làm mừng rỡ bằng xin Cha ban cho Ấn lệnh đem quân dẹp loạn Yêu Quỷ, Kinh Dương Vương bằng lòng. Long Vương Tử liền phát động đại quân tiến về Đông Hải đến Long Giao, tiến đánh các loài Thuỷ Tộc Yêu Tinh ác Quỷ. Long Vương Tử đi đến đâu, các loài Thuỷ Tộc kinh hồn khiếp vía đến đó. Long Vương Tử chính là Rồng Chúa đầu thai nên các loài Yêu Quỷ Thuỷ Tộc thấy Long Vương Tử đến đâu là kinh khiếp đến đó. Bị Long Vương Tử dùng pháp thuật bắt hết, số nào chống cự lại thì bị giết, số nào bị bắt thì xiềng xích chờ ngày trị tội. Diệt xong các loài Thuỷ Tộc, Trăn Tinh, Xà Tinh, Hổ Tinh phải mất cả năm, số còn sống sót thì trốn chạy ra biển, ở trên các hải đảo hoặc trốn chạy qua xứ khác. Từ đây Long Vương Tử thu phục một vùng đất đai rộng lớn thuộc phía Nam sông Trường Giang giáp biển. Long Vương Tử từ thượng nguồn Tây Bắc Côn Minh đánh xuống Quý Dương, Trùng Khánh, Quế Lâm, Chu Châu, Liễu Châu, Thiều Quang, Nam Xương, Hàng Châu, Hạ Môn nói chung là hầu hết Lãnh Nam Trung Quốc ngày nay. Dẹp xong loài Thuỷ Tộc, Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ, sau đó là cho quân binh khai phá đất đai màu mỡ, trồng ngô cấy lúa, đưa thời đại Kinh Dương Vương tiến lên một bước giàu sang mới. Long Vương Tử lên ngôi thay cha trở thành Kinh Dương Vương đời thứ 5, dời Kinh Đô về Giao Chỉ lập lên nước Xích Quỷ. KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 5 là vị Vương Thiên Tài, Đức Độ hơn người, chăm lo phát triển Nông Nghiệp, phát triển nền Văn Hoá giao tiếp, thuận tiện cho việc ngoại giao, trao đổi hàng hoá, dụng cụ, lương thực khắp xa gần lân bang các nước bạn. Khi ấy phía Bắc, Bắc sông Trường Giang, các Vương Đế cũng đã hình thành. Nói chung là Dân Tộc Đông Nam Á hay Dân Tộc Đông Bắc Á cũng chỉ là con cháu của Huỳnh Đế, Hồng Đế mà thôi. Ở cuối thời Hồng Đế, Nam sanh VIÊM ĐẾ. Thời Bắc sanh PHỤC HI, anh em một nhà. VIÊM ĐẾ: là nhà Bác Học NÔNG NGHIỆP. PHỤC HI: là nhà Bác Học CÔNG NGHIỆP tơ tằm, bông vải dệt lụa. Khi Nam chuyển sang giai đoạn KINH DƯƠNG VƯƠNG thời Bắc chuyển sang Vương Đế, Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, Đế Hạ, Đế Vũ v.v… Sự giao thương qua lại giữa Nam Bắc mỗi ngày một nâng cao nhưng mầm hoạ chiến tranh cũng từ đó mà phát triển. Do đâu? Do tham lam mà ra cả. SỰ RA ĐỜI VỊ QUỐC TỔ THIÊN TÀI CÓ MỘT KHÔNG HAI TRONG NHÂN LOẠI CON NGƯỜI Cho đến đời KINH DƯƠNG VƯƠNG thứ 9, huý hiệu là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương. Sanh ngày mùng 6 tháng 3 năm giáp tý, 3084 trước Công Nguyên.
Nói về Vương Hậu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 8, khi Vương Hậu sắp sinh con, trong lúc mơ màng yên giấc ngủ, liền thấy thần dân trong nước ở khắp mọi miền đem cúng nạp vô số châu báu trâm bảo quí hiếm, vàng bạc, ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, trầm hương, mật gấu đầy nhà chật kho. Quả thật, sau khi Vương Hậu sanh Quý Tử thời dân khắp mọi miền đất nước đem châu báu trâm bảo, sơn hào hải vị hiếm quí dâng lên Vua mừng Thái Tử ra đời, nên Kinh Dương đời thứ 8 đặt tên cho con là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương. Lộc Tục càng lớn càng hiền lành nhưng lại là nhà Quân Sự tài giỏi nhất đương thời. Vốn bản chất chân tu không háo sắc nên không có nhiều thê thiếp. Khi lên nối ngôi thay cha cũng đồng danh hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9, không tuyển thêm thê thiếp gì cả, tuy tuổi đã lớn gần trăm nhưng chưa có con nối dòng làm cho các quan vô cùng lo lắng. Trong một chuyến tuần du nơi Động Đình Hồ, Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, bộ lạc Long Giao (nay là dân tộc Nhật Bản). Kết duyên phu phụ thành vợ thành chồng. Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn, yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi thì thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế, Một Đấng Anh Hùng Cái Thế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hoá thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu tinh, quỷ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đúng vào giờ Thìn ngày 20 tháng 2 năm Giáp Thìn tức vào năm 2989 TCN chính là ngày khai hoa nở nhuỵ của Thần Long Nữ, lúc đó thời hoa Lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cộng thêm với điềm lành xuất hiện khắp nước Xích Quỷ. Vì Thế Lộc Tục và Thần Long Nữ đặt tên cho con là Hùng Lan. Hùng Lan lớn lên không những khôi ngô tuấn tú mà Đạo Đức, Trí Huệ có một không hai. Có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng – Bi – Trí – Đức. Với bốn Đức tính này, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Hùng Lan sau này chính là Quốc Tổ Hùng Vương. Cuối thời đại Kinh Dương Vương, Nước Xích Quỉ có 36 dân tộc. Cho đến khi Hùng Lan khai Hội Long Vân dùng Văn Hoá Cội Nguồn gồm thâu thêm 64 dân tộc nữa thành 100 dân tộc vào 2 tháng 3 năm Ất Sửu tức là vào năm 2967 Trước Công Nguyên. Sau 3 năm thao luyện binh mã, truyền đạt Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Hùng Lan còn truyền đạt cả pháp thuật thần thông tối cao để tiêu diệt Yêu Tinh Quỷ dữ cho chúng Hội Long Vân và Quân Dân Âu – Lạc để xây dựng lên một nước Văn Lang Hùng Mạnh sau này. Đúng Ngày 1 tháng 5 năm Mậu Thìn tức là vào năm 2964 Trước Công Nguyên, Hùng Lan xin phép Vua Cha Dẫn Quân Âu – Lạc Tiến về Lãnh Nam Địa Long Vũ Trụ Diệt 3 con Chúa Quỷ, Hồ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh. Sau Khi Hùng Lan Tiêu diệt xong ba con chúa Quỷ, liền tiến hành xây dựng Quốc Đô Văn Lang và khai hoang vỡ hoá mở rộng đất đai được dân chúng hưởng ứng theo về rất đông từ đó nước Xích Quỷ được mở rộng lên gấp 3 lần. 3 năm sau, khi Kinh Dương Vương sắp về trời liền truyền ngôi lại cho Hùng Lan. Hùng Lan khi lên ngôi trị vì thiên hạ thay Cha liền CHUYỂN ĐỔI NIÊN HIỆU KINH DƯƠNG VƯƠNG SANG GIAI ĐOẠN NIÊN HIỆU HÙNG VƯƠNG. CHUYỂN ĐỔI NƯỚC XÍCH QUỶ THÀNH NƯỚC VĂN LANG. CHUYỂN ĐỔI QUÂN DÂN ÂU – LẠC THÀNH QUÂN DÂN ÂU VIỆT- LẠC VIỆT NHẰM NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM QUÍ DẬU, 2959 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN, NHÀ NƯỚC VĂN LANG CHÍNH THỨC RA ĐỜI. QUỐC ĐẠO XUẤT HIỆN. Giai đoạn ĐỒNG BÀO Đoàn Kết, Thống Nhất một trăm bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT gọi là Bách Việt. Dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp Tạo Hoá Cha Ông. Vì Vậy QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG CHÍNH LÀ ÔNG TỔ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ TRUNG NGUYÊN TRUNG QUỐC. BỞI VÌ KHÔNG NHỮNG QUỐC TỔ KHAI SINH RA NHÀ NƯỚC VĂN LANG MÀ CÒN KHAI SINH RA DÂN TỘC BÁCH VIỆT VĂN LANG, CON RỒNG CHÁU TIÊN, CON LẠC CHÁU HỒNG. Từ đây Chữ Việt luôn gắn liền với nước Việt Nam qua các Thời kỳ lịch sử sau này. Quốc Tổ Vua Hùng là đấng kỳ Tài, kỳ Trí, kỳ Đức. Với Nền Quốc Phòng toàn Dân bảo vệ Đất Nước. Toàn Dân xây dựng Đất Nước. Toàn Dân khởi nghĩa chống ngoại xâm. Toàn Dân cảnh giác quân thù. Với chính sách lấy Dân làm gốc, tạo lên sức mạnh vô địch, phát huy cái gốc của Dân chính là Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc, sức mạnh Tinh Thần Đoàn Kết, sức mạnh dời non lấp biển, sức mạnh Thần Thánh với ba Cơ Quan Lãnh Đạo Đất Nước: 1. Thượng Viện Quốc Đạo Lãnh Đạo tinh thần Dân Tộc. 2. Hạ Viện Quốc Hội Lãnh Đạo phát triển Đất Nước. 3. Quốc Hội thi hành mọi chủ trương của Đạo, của Nhà Nước đi vào đời sống nhân dân. Đây nói về phía Bắc sông Trường Giang, Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh có con gái của Đế Lai là Đế Cơ (Phụng Cơ) công chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường, chăn tằm dệt vải đều thông giỏi, Tài Đức, Công – Dung – Ngôn – Hạnh có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa phi ngựa qua sông Trường Giang, thả mình vân du lạc đến động Lăng Xương xem hoa dạo cảnh (nay thuộc Huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cũng chính là Nơi Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) Nguyễn Tuấn tu luyện thành đạo). Tạo Hoá se duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Tạo Hoá an bày hai người gặp nhau, yêu nhau rồi kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ, về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang (nay thuộc tỉnh Phú Thọ, Việt Nam). Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hoà âu ca thịnh trị. Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh là con Cháu của nhà Húc Đế, hậu nhân của Phục Hi ở phía Bắc sông Trường Giang, nay chính là các nước Tây Á bây giờ.
NÓI VỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC VĂN LANG XƯA: Đông giáp biển; Tây giáp Ba Thục và sông Hồng Lạc (tức là sông Mê Công ngày nay); Bắc giáp Hồ Động Đình; Nam giáp Hồ Tôn (tức champa), bao hàm hầu hết miền Giang Nam của Lãnh Nam Trung Quốc bây giờ như: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Côn Minh, Trùng Khánh, Hàng Châu, Phúc Châu v..v… cũng như nhiều Châu Tỉnh khác nữa và Bắc phần nước Việt Nam hiện nay (từ Nghệ An giáp Hà Tĩnh trở ra) Ở thời Thượng Hùng Vương (2959-1276 TCN), Nam giáp Đèo Ngang. Ở thời Hạ Hùng Vương (1276-258 TCN), Nam giáp Hồ Tôn, giáp giới Quảng Nam; Đông giáp biển Nam Hải, Đông Hải. Nước Văn Lang thuở xưa vô cùng rộng lớn, được chia ra làm nhiều Bộ Quân Khu. Tính từ Bắc vào Nam Nước Văn Lang, mỗi Quân Khu có nhiều Châu; mỗi Châu có nhiều Quận, Huyện; mỗi Quận, Huyện có nhiều Xã nhiều Thôn. Vì nước Văn Lang quá rộng lớn nên Thôn, Xã, Quận, Huyện rất lớn. Dân cư thưa thớt, làng xã cách xa nhau. – Đứng đầu các Bộ Quân Khu là Lạc Vương, Hầu Vương – Đứng đầu các Châu là Lạc Tướng, Hầu Tướng – Đứng đầu Quận, Huyện là Bố Chánh Trưởng Ti – Đứng đầu xã là Lạc Dân, Lạc Điền Nước Văn Lang xưa có 3 miền: – Miền Nam Văn Lang chính là Việt Nam ngày nay – Miền Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Khu vực Nam sông Trường Giang hay Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay. Bắc Văn Lang hầu hết là toàn bộ nước Xích Quỷ (thời Kinh Dương Vương), rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang. Bắc, Trung Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc, vì thế Việt Nam và Trung Nguyên Trung Quốc là một dải đất liền, trở thành hai nước láng giềng cùng một điều kiện địa lý. Chính vì vậy cho nên người Việt Nam Văn Lang và người Hoa Trung Quốc Trung, Bắc Văn Lang đã có quan hệ lịch sử rất lâu đời, từ thời đại Kinh Dương Vương chuyển sang thời đại Hùng Vương. Trung, Bắc Văn Lang trở thành Trung Nguyên rồi chuyển sang Trung Quốc đều nằm trong chủng tộc lớn Bách Việt. Vì nước Văn Lang có Bách Việt nên ở Trung Nguyên Trung Quốc vào thời đại Hùng Vương, đã đánh dấu đặt tên nhiều con sông như sông Dương để nói về thời đại Kinh Dương Vương khai lập nước Xích Quỷ. Sông Âu, sông Lạc để nói về thời kỳ Quốc Tổ Hùng Vương Thuyết Giáo Nguồn Gốc Nhân Loại sanh ra từ Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Đức Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ. Nói về thời đại Hùng Vương, nước Văn Lang chia ra làm ba miền: Nam Văn Lang chính là nước Việt Nam ngày nay. Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay, hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, từ sông Dương Tử Trường Giang trở vào. Vì thế người Việt và người Trung Hoa không những cùng một điều kiện về địa lý, mà còn về chủng tộc họ tộc cũng rất giống nhau, trên một nguyên lý cơ bản là cùng chung Bách Việt Văn Lang có niên đại lịch sử hơn 10 nghìn năm, từ thời Kinh Dương Vương, phát Nguồn từ thời đại Viêm Đế Thần Nông. Nước Văn Lang Có hai Kinh Đô chính: – Kinh đô Nam Kinh Xích Quỷ. – Kinh đô Văn Lang Nước Xích Quỷ được mở rộng vào Nam lên tới 23 Bộ thành nước Văn Lang. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ là Kinh Đô cổ có từ thời Viêm Đế Thần Nông trên đất Giao Chỉ (nay là Chính là Thành Phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) là Kinh Đô Quốc Phòng Kinh đô Bảo Vệ Lãnh Thổ Nước Văn Lang. Còn Kinh Đô Văn Lang là Kinh Đô Kinh tế trên vùng đất Phong Châu, Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ là Kinh Đô có từ thời Hùng Vương. Cũng từ đây nền Quốc Đạo Tiên Rồng mở màn Hiến Pháp nước Văn Lang. Thượng trị Quốc Đạo, Hạ trị Quốc Hội. Trên thi hành Đạo, dưới thi hành Luật, đồng nghĩa thời nay là Thượng viện Quốc Đạo, Hạ viện Quốc Hội, trên ban hành Công Đạo, dưới ban hành Công Luật. Nền Quốc Đạo thời ấy không truyền xuống dân mà chỉ truyền xuống Vua, Vua truyền xuống Quan ở hàng Vương tộc, Châu – Bộ… Không phải ngẫu nhiên mà nước Văn Lang xưa có được sự Độc Lập kéo dài 2.701 năm ở Niên Đại Hùng Vương. Sự Độc Lập kéo dài của Niên Đại Hùng Vương đều có nền tảng cơ sở Văn Hiến của nó. Với đường lối trị Quốc Siêu Việt bằng VĂN HOÁ CỘI NGUỒN, NỀN QUỐC ĐẠO TIÊN RỒNG dân tộc, trên thế giới này 5000 năm trở lại đây, chưa có một nhà nước nào duy trì được nền thịnh trị Độc Lập lâu dài như vậy. Nhờ sống theo Văn Hoá Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc nên Vương, Quan ai nấy nhân cách, phẩm hạnh Đức Độ hơn người. Xứng đáng gương mẫu, đi đầu trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Đạo Luật tối cao nước Văn Lang. Nước Văn Lang vì thế trở thành đất nước văn minh hùng mạnh cả hai mặt Tinh Thần- Vật Chất. Dân giàu nước mạnh, luôn ổn định Chính Trị. Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì thiên hạ được 41 đời Thượng Hạ Hùng Vương. (Xem Kinh Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn) Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14 có giặc Thượng Tây Hạ, giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang, nhưng bị quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn. Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại bang thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miễn sao chiếm Đất, lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang, Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm càng về sau càng xâm lược quy mô lớn. Chúng luôn luôn chực chờ cơ hội, nuôi mộng xâm lược bởi Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn: 1: Nền Văn Minh Hội Hoạ, Giao Tiếp 2: Nền Văn Minh Khai Thác, Tài Nguyên 3: Nền Văn Minh Rèn Đúc Dụng Cụ 4: Nền Văn Minh Lúa Nước 5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa
Cũng từ đây những câu chuyện lịch sử đầy giá trị về nhân cách đạo đức; trí huệ anh hùng; loại bỏ cái ác vươn tới cái thiện, tạo ra cuộc sống mùa Xuân của muôn nghìn sắc hoa sôi động rực rỡ và hạnh phúc; là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống; ca ngợi Đạo Đức; phê phán gian ác; loại bỏ phi nghĩa; tôn vinh chính nghĩa ra đời. Những câu chuyện nổi tiếng các bạn có thể tìm đọc trong tuyển tập Long Hoa Lược Truyện: Câu chuyện: Bát Cơm Chan Cát (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Quý Lân Quốc Vương đời thứ 2 trị vì từ 2880 đến 2796 TCN) Câu chuyện: Linh Vị Thờ Trời (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Cao Lang Quốc Vương đời thứ 6, trị vì từ 2572 đến 2498 TCN) Câu chuyện: Có Nhân Có Đức Không Sức Mà Hưởng, Ông Tổ Thượng Điền (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Tâm Lang đời thứ 11, trị vì từ 2188 đến 2113 TCN) Câu chuyện: Người Chồng Tốt (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Quế Lang Quốc Vương đời thứ 12, trị vì từ 2113 đến 2043 TCN) Câu chuyện: Đức Trị Quốc (vào thời Thượng Hùng Vương, HÙNG LINH LANG: đời thứ 14, trị vì 2001 đến 1927 TCN) Câu chuyện: Điệu Hò Trên Sông (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Châu Lang đời thứ 15, trị vì 1927 đến 1857 TCN) Câu chuyện: Mài Đao Trên Đá (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Thục Lang đời thứ 18, trị vì 1705 đến 1634 TCN) Câu chuyện: Câu Chuyện Hồng Trần Cuộc Đời Thanh Vân (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Yên Lang đời thứ 19, trị vì 1634 đến 1562 TCN) Câu chuyện: Vạn Cốc Sơn (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Vĩ Lang đời thứ 20, trị vì 1562 đến 1486 TCN) Sử Truyện: Long Phụng Hiệp Nghĩa; Câu chuyện: Người Con Gái Thông Minh (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Dịch Lang đời thứ 23, trị vì 1342 đến 1276 TCN) Sử Truyện: Sự Tích Trầu Cau (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Vân Lang đời thứ 1, trị vì 1276 đến 1211 TCN) Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 1, Bách Việt Văn Lang Đại Chiến Quân Ân (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Tiên Lang đời thứ 3, trị vì 1141 đến 1077 TCN) Câu chuyện: Cảnh Non Tiên (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương đời thứ 4, trị vì 1077 đến 1020 TCN) Câu chuyện: Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dày; Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 2- Lịch Sử Thánh Gióng Đại Chiến Quân Ân (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang) đời thứ 6, trị vì 961 đến 893 TCN) Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 3- Cha Con Doãn Thường Việt Vương Câu Tiễn nuốt trọn Bắc và Trung Văn Lang (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Việt Vương đời thứ 13, trị vì 569 đến 506 TCN) Câu chuyện: Vay Trả, Trả Vay (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Nghị Vương đời thứ 17, trị vì 351 đến 306 TCN) Những câu chuyện: Dương Gian- Âm Cảnh; Tiên Dung Và Chử Đồng Tử; Sự Tích Quả Dưa Hấu; Sơn Tinh Thuỷ Tinh; Sự Tích Thành Cổ Loa; Sự Tích Trọng Thuỷ Mỵ Châu (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Duệ Vương đời thứ 18, trị vì 306 đến 258 TCN) Và còn rất nhiều câu chuyện thú vị hấp dẫn khác đang chờ các bạn khám phá. Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Quốc Tổ Dựng Nước 79 năm. Thời con cháu Giữ Nước 2.622 năm. SAU ĐÂY LÀ TÓM TẮT SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI CỦA QUỐC TỔ Quốc Tổ sinh ngày 20 tháng 2 năm Giáp Thìn, 2989 Trước Công Nguyên – Quốc Tổ Họ Cao, tên Hùng Lan – 16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý – 22 tuổi Quốc Tổ chuyển Đại Pháp Luân khai Hội Long Vân tại vườn Cấm nằm ở phía Tây nước Xích Quỷ (nay chính là Vườn Quốc Gia Lão Sơn cách Thành Phồ Nam Kinh, tỉnh Giang Tô Trung Quốc, 37 km về phía Tây) Theo niên lịch Đại Nam có từ thời Viêm Đế (đây cũng chính là Lịch mà người Phương Đông hay dùng gọi là Âm Lịch) – Ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu, Quốc Tổ thuyết giáo nói ra Văn Hoá Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ. – 25 tuồi Quốc Tổ dẫn quân Âu – Lạc và nhân tài Chúng Hội Long Vân tiến về đất Địa Long Lãnh Nam, nằm ở phía Nam nước Xích Quỷ (Nay là Địa Long chữ S Việt Nam). Quốc Tổ cùng quân Âu – Lạc, tiêu diệt ba con Yêu Tinh Chúa Quỷ là Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh. Khai lập lên nước Văn Lang vào năm Mậu Thìn. – 30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương nhằm vào ngày 2 tháng 9 năm Quý Dậu, Năm 109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho Hùng Quý Lân vào năm 2880 trước Công Nguyên – 79 năm Quốc Tổ ở ngôi Quốc Vương. – 3 năm Quốc Tổ ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Quốc Tổ thọ 112 tuổi. Về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 theo niên lịch Đại Nam Văn Hiến tức là vào năm 2877 Trước Công Nguyên.
PHẦN LƯỢC SỬ TỪ KHI QUỐC TỔ VỀ TRỜI CHO ĐẾN KẾT THÚC THỜI ĐẠI ÂU LẠC
Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non Trăm tuổi có dư chưa an nhàn Kia kìa Dân Chúng ôi còn khổ Vẫn còn hộ đói khổ lầm than. Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước, bận rộn cả đời không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng Ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào Ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân. Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương, Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về Vật Chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa Tinh Thần. Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn lẫn sự sống của thể xác. Vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một. Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thì đẹp Đạo, tốt Đạo thì đẹp Đời. Tinh Thần Vật Chất song đôi tiến tới xã hội Chân Thiện Mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng, Văn Minh. Kìa Non Nước thay da đổi thịt Giàu từng ngày rừng rực ấm no Đời nở hoa, ôi mùa Xuân Tổ Quốc Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha. Khi Quốc Tổ về trời, người có để lại lời di chúc cho Con Cháu Tiên Rồng, tiến về Nam xây dựng nhà Rồng Tiên nay chính là dãy đất hình chữ S, là đất nước Việt Nam hiện nay. (Muốn biết nguyên văn lời di chúc của Quốc Tổ mời đọc Long Hoa Mật Tạng Kinh chương 20, phần 3, sẽ rõ). Trước khi Quốc Tổ về trời có để lại di chúc là Người muốn được an nghỉ tại kinh đô Văn Lang(thuộc núi Nghĩa Lĩnh của Việt Nam bây giờ). Vì sao Quốc Tổ lại di chúc như thế? Phải chăng người đã tiên đoán trước được điều gì đó không hay cho Trung và Bắc Văn Lang? Nguyên Văn lời di chúc của Quốc Tổ như sau: Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt! Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần Xuân đến, 84 lần Xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước, biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc Ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa. Với lý do vì Ta là Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tầng Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân. Khi ta về Trời, thì Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ- Hai Đấng tối cao Linh Thiêng vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng hoạ, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiêng, không có Đấng nào Linh Thiêng hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặt hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm.
Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lãng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo thì Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất thì Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang, nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang. Ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang, mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai. Địa Mẫu Âu Cơ- Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu có của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền Lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiêng vũ trụ, chỉ cần cảm nghĩ đến Mẹ là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ Lực khai thông mà thành tựu khoa học vật chất. Cũng như mọi sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo thành tựu đều có bàn tay nâng đỡ của Đức Cha Trời- Mẹ Trời, Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Ta sanh xuống chốn nhân gian là để nói rõ nguồn gốc Vũ Trụ, nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền Năng Tối Cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con cháu của Đức Cha Trời, Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian để cho Nhân Loại trở về với Cội, với Nguồn, đến với Đấng Ông Cha- Đấng tạo lập lên vũ trụ, sanh ra Nhân Loại con Người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang để sau này con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S- Thánh Địa Lãnh Nam Linh Thiêng siêu việt này. Là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa, cũng là Thánh Địa Linh Thiêng bảo bọc Nhân Loại con Người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10. Nay Ta giao Địa Long Thánh Địa này cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào? Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất. Sau năm nghìn năm Ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai, Thiên Ấn trở lại, Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non, vì Nước, Hồn Trung Kiên, Hồn Tiết Liệt Nam Nữ, Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng bè Phái, không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc, mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc. Những kẻ tôn thờ ngoại xâm; tôn thờ ác Đạo; vùi lấp truyền thống Dân Tộc; Bỏ Cội bỏ Nguồn; dù trung hiếu cho cách mấy, Tiết Liệt cho cách mấy, cũng chỉ là trung với Bè Đảng mà thôi, và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đoạ, ngập chìm trong con đường ác. Mất thân Người khó mà đầu thai trở lại làm Người. Sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục, theo Luật Nhân Quả mà thọ lãnh quả báo. Sau năm nghìn năm nữa, từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hoá lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là Thời Đại Dân Chủ Nhân Quyền Đa Đảng, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến Pháp nguỵ tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước, sẽ được Nhân Dân ủng hộ. Không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc, thì Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiêng Dân Tộc, Khí Thiêng sông núi ủng hộ che chở. Ý Trời đã thế thì xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời, đó là Ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ, Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển, cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần do lượng phù sa hàng năm, do nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh Khí. Đất sanh Linh. Khí – Nước – Đất giao hoá khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vầng Thái Dương toả sáng khắp Trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển. Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi, yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu Tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bậc tu thiền luyện khí nhập định thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm Ta trở lại chốn Nhân Gian, lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi, và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp, động đất khắp nơi, nước dâng khắp chốn, mưa to bão lớn kinh hoàng, nhiệt độ tăng cao thiêu đốt, nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hoá đến chỗ thông Linh hướng Thiện, theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đoạ rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính đều đoạ lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông thì mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hoá Linh Hồn. Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang, Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, nền Hiến pháp Văn Lang, là thuyền lớn cầu lớn bắc qua sông mê đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn, phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha Ông trở về vũ trụ. Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang, Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thì người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thì người ấy hưởng, vì giang san vũ trụ này là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tang tóc chết chóc cho con người hết triệu năm này sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm, mưu mô quỷ quyệt vô cùng, biến giả thành chân che mắt cả Thần Thánh, huống chi chỉ là người thường tục thì chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh Giác của Linh Hồn con người. Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh Giác: Một là: Pháp Tạng Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến Pháp, Pháp Tạng vũ trụ. Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân Quyền Bình Đẳng. Những Quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã Ấn Chứng di truyền cho mỗi con người, không có Quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những Quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm. Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng Xã Hội. Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sáng Cứu Thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác này. Về thời mạt pháp, Tà Ma Ác Quỷ chúng giả tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền toả ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau toả sáng thiêu rụi Tà Ma Ác Quỷ, làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người. Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng, nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng, một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn, còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông Linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa, tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều Yêu Tinh khác, và chúng không bao giờ quên mối thù con cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lợi là tiêu diệt Nước Văn Lang, tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt, Đồng Bào anh em tàn sát lẫn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ, chúng thấy Quân Dân Văn Lang hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ, hồn của ba con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S nên không chạy trốn về Phương Tây, mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang quên đi nòi giống Tiên Rồng, quên đi Nguồn Cội, đánh mất truyền thống dân tộc, chạy theo xu thế ngoại bang. Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh, dẫn con cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hoá Cội Nguồn mất, Thiên Ấn tan biến chẳng còn, thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu? Thần Thông đến đâu? Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng Tối Cao Chúa Tể vũ trụ- Quyền Năng vô hạn- sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn, con cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn, Thờ phụng Tổ Tiên: Cha Trời Lạc Long Quân- Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hoá Cội Nguồn mà hành trì, thì Tà Ma Ác Quỷ cũng khó mà làm gì được. Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang, phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì cũng không được bỏ Cội, bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hoá Cội Nguồn, nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước thì coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại bang, cảnh nô lệ ngoại bang, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ Ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến. Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác kim thân Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vĩnh biệt Quân Dân cả Nước. Từ ngày Quốc Tổ về Trời, Thái Thượng Quốc Mẫu Phụng Cơ còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quý Lân, con cả Quốc Tổ lên ngôi Vương (2.880 đến 2.796 trước Công Nguyên) được ba năm, Hùng Vương đời thứ hai, Trị Quốc không bao lâu thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lệnh Hùng Vương, có ý phản lại Bách Việt Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lệnh đem chém trước Bách Việt Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng. Kể từ Sau sự đột biến đó, mọi việc đi vào Ổn định và trật tự. Nhờ vào nền Văn Hiến Quốc Đạo Tiên Rồng do Quốc Tổ truyền lại, Hùng Quý Lân Quốc Vương trị vì Thiên Hạ đạt đến đỉnh cao của Đạo trị Quốc (Vương Đạo). Bách Việt Văn Lang dân giàu nước mạnh, thái bình an lạc âu ca, ngủ không đóng cửa không người ăn trộm, vắng bóng ăn cướp. Tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc công bằng bình đẳng văn minh, tự do mưu cầu hạnh phúc. Thịnh trị hơn cả Vua Nghiêu, Vua Thuấn. Đến đời Vua Hùng Vương thứ 14 thời Thượng Hùng Vương, Hùng Linh Lang Quốc Vương (2001 đến 1927 trước Công Nguyên) có giặc Thổ Phỉ (Thượng Tây Hạ), giặc Hồ Quảng, Hồ Xương nổi lên dấy loạn biên cương ở Tây Bắc Văn Lang nay Thuộc Tỉnh Tứ Xuyên và một phần Tây Tạng Trung Quốc. Hùng Linh Lang cùng bá quan văn võ tiến cử người tài, chọn ra Võ Hầu tướng Quân thống lãnh 5 vạn quân đi dẹp giặc. Nhờ Đức Độ cùng Uy Linh của Nền Quốc Đạo do Quốc Tổ truyền lại, đoàn quân đi đến đâu được dân chúng, nhân tài hưởng ứng, tình nguyện gia nhập lên đến 5 vạn quân, cùng nhau giết giặc cứu nước nên giặc Thổ Phỉ, giặc Hồ Quảng, Hồ Xương bị tiêu diệt. Không những thế nhờ dùng Đức thâu phục dân chúng vùng biên giới nên cương vực của Văn Lang lại được mở rộng thêm. Nước Văn Lang xưa nay có chủ Giặc Hồ kia mơ ngủ xâm lăng Tưởng rằng Bách Việt dễ ăn Nào hay bỏ mạng thây phơi khắp cùng Một Dân Tộc Tiên Rồng bất khuất Lòng hiếu trung cao vút trời mây Vì non vì nước chung tay Triệu người như một bủa vây khắp cùng Giặc Hồ bỏ mạng tiêu đời Xâm lăng Bách Việt chẳng còn một tên. Vào đời Hùng Vương thứ 18 Thượng Hùng Vương, Hùng Thục Lang (1705 đến 1634 trước Công Nguyên). Khi ấy ở phương Bắc Nhà Thương, Vua Thành Thang nối truyền đến đời thứ mười ba Tổ Dân Thiên Tử có mộng xâm lấn nước Văn Lang, luôn cho người theo dõi nước Văn Lang và ngày đêm thao luyện binh mã chờ ngày xâm lược và ngày đó đã đến. Năm 1147 trước Công Nguyên vào cuối đời thứ hai đến đầu đời thứ 3 Hạ Hùng Vương, Thời Hùng Tiên Lang Quốc Vương (1141 đến 1077 trước Công Nguyên), phía Bắc Ân Thọ (Trụ Vương) huy động một lực lượng khổng lồ bao gồm 50 trấn chư hầu lớn nhỏ với quy mô hơn 200 vạn quân chia làm 4 đạo quân do Vi Tử Điển, Vi Tử Khải, Ngạc Sùng Cảnh, Khương Hoàng Nhân tiến đánh nước Văn Lang. Nhờ biết lợi dụng địa hình cộng với nền Quốc Đạo Tiên Rồng uy linh, gươm Thiên trấn Quốc do Quốc Tổ Truyền lại nên Quân Dân Văn Lang ta với 100 vạn quân do Cha Con Hùng Diệp Lang, anh em Cao Lạc Hầu, Hùng Cao Lang, Tây Thục Vương chỉ huy đã đánh bại Quân Ân một cách hào hùng vào năm 1139 trước Công Nguyên. Đây là cuộc chiến hào hùng của dân tộc thể hiện tinh thần giữ nước của con cháu Rồng Cháu Tiên. Sau cuộc chiến với quân Văn Lang nhà Ân suy yếu. Vua Trụ càng ngày càng tàn ác, mê say tửu sắc, dâm loạn vô cùng, trở thành một hôn quân Vô Đạo, đi ngược lại Đạo Đức, nghe theo lời tà Ma ngoại Đạo, Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, trộm cướp nổi lên khắp mọi nơi, các cuộc đàn áp nổi lên khắp chốn không còn luật lệ gì nữa, những Trung Thần phản ảnh can gián liền bị xử tử. Đã thế Ân Trụ Vương còn chọc giận đến các Thánh Linh và Nữ Oa Nương Nương, là một trong những số Thánh Linh ấy. Yêu Tinh ra phò Ân Trụ Vương mỗi lúc một nhiều làm hại muôn dân, các Trung Thần khuyên can không được bị Vua Trụ ép vào đường cùng đành phải làm phản. Tạo ra một thế lực lớn chống trả lại triều Ân Vua Trụ. Thế lực chống trả đó đứng đầu là Tây Bá Hầu Chu Văn Vương, sau này bị Chu Võ Vương, Cơ Phát lật đổ, thành lập nhà Chu vào năm 1122 trước Công Nguyên. (xem Văn Lang Chiến sự 1 sẽ rõ). Cùng thời này ở Phương Nam Văn Lang có binh biến. Chiêm Chiêm Vương bị em họ là Hồ Chiêm Quân dẫn 10 vạn quân đánh úp chiếm đoạt ngôi vị. Hồ Chiêm Quân sau khi giết anh họ của mình liền dẫn 10 vạn quân buộc dân chúng đi theo tiến sâu vào đất Lĩnh Nam hàng nghìn dặm, mang theo nền Văn Minh lúa nước, nói chung là Ngũ Cốc được dân chúng mang theo sâu vào Nam. Không những nền Văn Minh lúa nước mà cả nền Văn Minh sắt thép, đồng, thau, chạm trổ hội hoạ, chăn tằm dệt cửi, gốm sứ, dựng lên nền Văn Minh Chăm, trong đó có nền Văn Minh gốm sứ Sa Huỳnh. Hồ Chiêm Quân xưng Đế xưng Vương biệt lập, không theo lệnh của Vua Hùng nữa. Cũng từ đây, Hồ Chiêm Quân không cho nhắc tới Văn Hoá Cội Nguồn Tiên Rồng- nền Quốc Đạo Dân Tộc nữa, tất cả đều bỏ lại sau lưng dần dần, phai mờ và quên lãng. Phải chăng quên mất Đạo Trời Hoạ tuôn máu đổ đầu rơi khắp cùng Quên đi lời dạy Vua Hùng Anh em tàn sát họ hàng máu tuôn Nồi da nấu thịt sớm hôm Từ đây Bộ Lạc Chiêm Vương khổ sầu Chia đàn rẽ nghé tan bầu Lê dân khốn khổ biết đâu Cội Nguồn Đồng Bào chung một con đường Đại Đồng bình đẳng náo nương về Trời Thánh Thần Tiên Phật đây rồi Do tâm mê ngộ, tạo thời mà nên Ác thời thành Quỷ thành Tinh Thiện thời thành Phật, thành Tiên, Thánh Thần Hồ Chiêm lạc lối đã đành Kéo theo vô số dân lành khổ sa Từ đây binh lửa can qua Đầu rơi máu đổ tai bay hoạ cùng Khi nào lời dạy Vua Hùng Tái sanh trần thế Tiên Rồng nở hoa Văn Lang sống dậy lời ca Thái bình Độc Lập nở hoa thái bình Chiêm Vương trở lại hồi sinh Hồ Chiêm phải chịu cực hình trước dân Trước muôn vạn ức Thánh Thần Trị trừng cái tội ngông cuồng nay xưa. Hậu Duệ của Hồ Chiêm Quân cùng với những người theo Hồ Chiêm Quân sau này chính là dân tộc của các nước ASEAN. Cho nên dân tộc Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với họ cho đến ngày nay. Vào thời Hùng Huy Vương từ năm 961 đến 893 trước Công Nguyên, do quá trình truyền khẩu sai lệch lâu dài về Văn Hoá Cội Nguồn, cộng thêm sự hấp thụ Văn Hoá phương Bắc theo mưu đồ của Thái Công Vọng Khương Thượng (Khương Tử Nha), Sở Linh Công (Vua Sở) và Ngô Thái Bá cùng với em Ngô Trọng Ung (vua Nước Ngô) nhằm nuốt trọn Văn Lang, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua này Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái, hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc. Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắt đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến- Văn Hoá Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền, độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi giục của các thế lực tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang, nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, dẫn đến nồi da nấu thịt ở Văn Lang. Từ đây chính là Cơ Hội cho Giặc Phương Bắc Xâm Lược.
Năm 961 trước Công Nguyên, Ân Mao là con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ còn sống sót, lập lên nước Man Du (hậu Ân) cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm. Liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, gọi chung là ba nước Phiên Ngung. Ba nước này liên kết với nhau với lực lượng lên đến 90 vạn quân chia làm 3 đạo quân do Ân Mao, Hung Nô Vương (Vua Hung Nô), Hồ Nghi Vương (Vua Hồ) tiến đánh nước Văn Lang thế mạnh như chẻ tre. Quân dân Văn Lang vì mất đi nền Quốc Đạo Tiên Rồng, không còn tường đồng vách sắt nên đánh đâu thua đó một cách đau đớn. Cho đến năm 930 trước Công Nguyên, Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) Thống Lĩnh Quân Dân Văn Lang đánh tan tác 90 vạn quân Giặc một cách thần tốc. Ân Mao, Vua Hồ, Vua Hung Nô bỏ mạng chết không toàn thây. Di tích cuộc chiến hiện tại chính là vùng đất thuộc tỉnh Giang Tô, An Huy, Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang Trung Quốc ngày nay. Tiền thân của Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) chính là Đức Long Đế Sùng Lãm- Kinh Dương Vương đời thứ nhất. (xem Văn Lang Chiến sự 2 – Lịch Sử Thánh Gióng sẽ rõ). Sau 300 năm độc lập từ khi Thánh Gióng dẹp giặc Phiên Ngung (là ba nước Man Du-hậu Ân, Hồ, Hung Nô). Lúc này tình hình nhà nước Văn Lang tồi tề hơn Thời của Hùng Huy Vương. Ở thời Này Vua, Quan càng sống theo xu thế của Văn Hoá Phương Bắc dẫn đến độc quyền, độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại càng nghe theo sự xúi giục của các thế lực tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang, dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái. Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa. Có sự hậu thuẫn từ phương Bắc nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hoá phương Bắc, Văn Hoá của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hoá chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh. Những ông Vua Việt nổi lên như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau này các Vua Việt tự xưng này bị cha con Doãn Thường thôn tính, tiêu diệt và thành lập nước Việt Trung Nguyên. Vào thời Hùng Tuân Lang đời thứ 13 hạ Hùng Vương từ năm 569 đến năm 506 trước công nguyên Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt từ khi cha con Doãn Thường nổi lên thành lập nước Việt Trung Nguyên vào ngày 3 tháng 2 năm 545 trước Công Nguyên. Ông Bà, Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang đời nhà Hạ Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ, Vua Kiệt đắm say tửu sắc, lại bất trí không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần đi chinh phạt các nước, Vua Vũ bị Vua Kiệt nhà Hạ truy sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương Nam- Bắc Văn Lang giả làm dân thường sanh sống, rải rác nhiều nhất là ở đất Cối Kê. Vua Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê (nay là địa phần gần với Thành Phố Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc hiện nay), mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể nên Vua Vũ mua rất nhiều ruộng đất trở nên giàu có không khác gì những người giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế, Vua Vũ còn giúp đỡ các quan tướng đi theo mình ở rải rác khắp đất Bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự giàu có nên chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt – Âu Việt, Vua Vũ truyền bá những người đi theo mình cắt tóc, xăm mình, trở thành dân Âu, dân Việt nhưng không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt, mà duy trì lối sống dung hoà Bách Việt, lối sống hoà hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình. Lối sống bí mật hình thành lên nghiệp Vương tương lai về sau trong các thời con cháu. Trong thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thì nhà Hạ là người nhân đức trung hậu, nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thì hoang dâm vô độ, độc ác vô cùng, phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn sát các nước, giết hại trung thần, bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vua Vũ không muốn trở về đất Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng, có thể làm nên nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau. Sao gọi là nuôi mộng cho đời sau? Có nghĩa là duy trì dòng tộc theo Văn Hoá trung hoà hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đỡ người Phương Bắc di cư đến Bắc Văn Lang để ở nhằm nuôi lớn cái Gốc tự trị, củng cố thế lực Xã Hội, cho đến khi hội tụ đủ thời cơ thì nổi dậy xưng Vương. Vua Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang, người nào người nấy trở nên giàu có không kém gì người giàu ở bản địa- dân chính gốc Bắc Văn Lang. Đến đời thứ 20, con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Tri Huyện. Đến đời thứ 30 thời con cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu, các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã Hội ở khắp đất Bắc Văn Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương xưng Bá. Đến đời thứ 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu Sông Lạc (Hiện tại là Thành Phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang Trung Quốc) Thấy tình thế Bắc Văn Lang mất Gốc Văn Hoá Cội Nguồn; nền Quốc Đạo không còn; Nhà Nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo; nhà nước của sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị; Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là Quan lạc Cội Lạc Nguồn, chỉ biết củng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân, trở thành tham Quan nổi lên khắp nước nhất là Bắc Văn Lang. Tham Quan không những đắm say tửu sắc, chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất, mà còn trở thành mê tín dị đoan chạy theo Văn Hoá Phương Bắc. Chỉ biết quyền lực, tham ô hối lộ, dẫn đến làm hại dân hại nước, nhất là thể chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị càng ngày càng hà khắc của các Vương Quan tha hoá. Dân chúng Bách Việt Bắc Văn Lang chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng, không trông mong gì nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh. Mơ ước có sự thay đổi nên chỉ cần có một tia lửa thương dân nổi lên thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho Con Cháu Vua Vũ, Doãn Thường nổi lên xưng Vương. Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ này như quả mít chín muồi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đem lại quyền lợi cho dân, tức thời bùng cháy chiến tranh ngay không cách gì dập tắt được. Nhất là Văn Hoá Cội Nguồn đã mất, sự đoàn kết của dân tộc không còn, non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màn u minh. Khi Dân tộc Văn Lang mất đi nguồn gốc truyền thống anh linh đương nhiên phải héo cành rũ ngọn. Cội Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không còn nghĩ gì đến non sông Tổ Quốc nữa. Mạnh ai người nấy đi theo chí hướng riêng. Tất cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo, có thể nói là phản bội lại non sông Tổ Quốc. Doãn Thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc, hiểu rõ tình thế xã hội, hiểu rõ nguyện vọng của dân, hiểu rõ tâm lý của dân và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ đẻ của chính trị, dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu: “Tất cả đấu tranh là vì Dân. Giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đem lại quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân vì dân mà chiến đấu. Vì Dân mà quên mình. Bảo vệ độc lập tự chủ, xoá bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị. Thoát khỏi thể chế xin cho. Thoát khỏi tham quan tàn bạo. Lập lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang- Nhà Nước độc tài độc trị, đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng” Tất cả ngôn từ văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ bờ. Ngày 3 tháng 2 năm 545 trước Công Nguyên, cha con Doãn Thường triệu tập các Vua Việt hội nghị tại đất Cối Kê, nơi đền thờ Vua Vũ từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam – đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang, Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là Hội Liên Minh Việt Bắc Văn Lang. Nơi đất Cối Kê đền Thờ Vua Vũ, Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại, thuyết phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị liên minh thành một khối, trở thành một nhà nước mới- Nhà Nước Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Sau khi thành lập nhà nước Việt Trung Nguyên, cha con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên, xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Bắc Văn Lang bị cha con Doãn Thường cướp trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc. Tất cả những di tích Văn Hoá cũng như danh nhân, những người có công với đất nước Văn Lang bị xoá sạch. Thay thế vào đó là Văn Hoá Phương Bắc, thờ phụng những người có công ăn cướp Bắc Văn Lang, lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại những di tích thời Viêm Đế Thần Nông- Ông Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ 10 đời niên đại Viêm Đế Thần Nông truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương- 9 đời. Đến đời thứ 10 thời chuyển sang niên đại Hùng Vương- 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời. Cha con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang và biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên, thì không những Văn Hoá truyền thống Văn Lang bị xoá sạch, mà những di tích 41 đời Hùng Vương cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ nước cũng đều bị xoá không còn. Thay thế vào đó là Văn Hoá Trung Nguyên mới sáng lập cũng như những danh nhân đã có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên. Cha con Doãn Thường làm như thế là để cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu theo về Phương Bắc thì Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xoá sạch những di tích Văn Lang còn sót lại. Di tích 9 đời Kinh Dương Vương chỉ còn sót lại thời Viêm Đế Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời thì nước Văn Lang chỉ còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi. Về sau có thơ rằng: Doãn Thường cướp lấy Văn Lang Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời Nào hay Phương Bắc nuốt rồi Cáo già đã giả con trời còn chi Tiếng đời để lại bia ghi Phản non hại nước mấy khi trường tồn Thảm thương con cháu Tiên Rồng Lạc Nguồn lạc Cội mắc vòng khốn nguy Thiên Đàng đã mất lối đi Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.
Khi cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên thì những di tích Văn Hoá Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến thời Đại Hùng Vương đều xoá sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào đó là một số di tích Văn Hoá mới- Văn Hoá thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông chẳng hạn như sông Dương Tử đổi tên thành sông Trường Giang. Thay đổi một số tên núi. Thay đổi tên Châu, Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô từ Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết danh từ mới thay cho danh từ cũ. Văn Hoá Truyền Thống Văn Lang dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây, cha con Doãn Thường biến nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xảo ngôn truyền bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ đời sau bị mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ thực là to lớn, dẫn nước 9 con sông làm cho 9 Châu có thể ở được. Con Cháu Vua Vũ Đến thời Việt Vương Câu Tiễn đánh bại nước Ngô, trả đất lại cho nước Sở, trả đất lại cho nước Lỗ mà nước Ngô đã chiếm lấy.
Những di tích Văn Hoá Văn Lang bị xoá đi, thay thế vào đó là những di tích Văn Hoá mới- Văn Hoá Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương thì sông Trường Giang chính là sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử là sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang thì chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang không còn gọi là sông Trường mà gọi là sông Hán. Sông Kinh, sông Âu, sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang. Nói tóm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thì những di tích Văn Hoá Văn Lang bị xoá sạch tới đó. Thay vào đó là những Văn Hoá mới theo Phương Bắc nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài của Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.(xem Văn Lang Chiến sự 3 sẽ rõ). Vào thời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang (506 đến 456 trước Công Nguyên). Năm 496 TCN, Doãn Thường qua đời (khi ấy là thời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang lên ngôi đã 10 năm), con của Doãn Thường là Câu Tiễn lên thay. Tình hình Bắc Văn Lang vẫn không mấy sáng sủa, vua Hùng mang quân đi dẹp loạn nhưng không được vì Nhà Nước Việt Trung Nguyên vẫn còn đang rất mạnh và được dân Bắc Văn Lang ủng hộ.
– Cùng năm, Hạp Lư, Vua Nước Ngô mang 10 vạn quân vượt sông Trường Giang tiến đánh nước Việt Trung Nguyên nhưng bị quân Việt Trung Nguyên đánh bại. Hạp Lư vì thất bại uất hận qua đời. Phù Sai lên ngôi thay cho cha, ngày đêm luyện binh mã chờ ngày phục thù.
– Năm 493 TCN, Câu Tiễn tiến đánh nước Ngô bị Ngô đánh bại, đi tiêu 10 vạn quân ở Phù Liêu. Câu Tiễn dẫn tàn quân về Cối Kê thì bị bao vây. Cùng lúc đó Hùng Ánh Vương cho 20 vạn quân tiến ra Bắc dẹp loạn, nhưng không thể tiến đánh vào Bắc Văn Lang được. Sau khi bị đánh bại, Câu Tiễn hàng nước Ngô và cống nạp rất nhiều của cải lẫn mỹ nữ cho Ngô Vương trong đó có Tây Thi. Ngô Vương bắt Câu Tiễn làm tù binh trong 3 năm, từ đây điển tích ẩn nhẫn chờ thời (nếm mật nằm gai) và mỹ nhân kế ra đời.
– Sau 3 năm tức là năm 490 TCN, Câu Tiễn được trả về nước Việt Trung Nguyên và tiến hành xây dựng lực lượng trong hơn mười năm chờ phục thù nước Ngô. Vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi không lo chính sự, nghe lời nịnh thần Bá Hi giết chết các trung thần như Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) và không đề phòng Câu Tiễn.
Năm 493 trước Công Nguyên, Câu Tiễn tiến đánh nước Ngô bị Ngô đánh bại, đi tiêu 10 vạn quân ở Phù Liêu. Câu Tiễn dẫn tàn quân về Cối Kê thì bị bao vây. Cùng lúc đó Hùng Ánh Vương cho 20 vạn quân tiến ra Bắc dẹp loạn, nhưng không thể tiến đánh vào Bắc Văn Lang được. Sau khi bị đánh bại, Câu Tiễn hàng nước Ngô và cống nạp rất nhiều của cải lẫn mỹ nữ cho Ngô Vương trong đó có Tây Thi. Ngô Vương bắt Câu Tiễn làm tù binh trong 3 năm, từ đây điển tích ẩn nhẫn chờ thời(nếm mật nằm gai) và Mỹ Nhân Kế ra đời. Sau 3 năm tức là năm 490 trước Công Nguyên, Câu Tiễn được trả về nước Việt Trung Nguyên và tiến hành xây dựng lực lượng trong hơn 10 năm chờ phục thù nước Ngô. Vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi không lo chính sự, nghe lời nịnh thần Bá Hi giết chết các trung thần như Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) và không đề phòng Câu Tiễn. – Năm 474 TCN, Câu Tiễn tiến quân đánh úp nước Ngô. Nước Ngô thua to nên giảng hoà. Câu Tiễn cho giảng hoà trong 4 năm. – Năm 470 TCN, Câu Tiễn mang quân tiến đánh quân Ngô. Quân Ngô thất bại, Ngô Vương xin hàng nhưng Phạm Lãi can Câu Tiễn, vì thế Phù Sai tự sát. Câu Tiễn lập mưu giết Bá Hi để che đậy tội ác. Sau khi thôn tính nước Ngô, Câu Tiễn tiến hành lên kế hoạch sát nhập nước Việt Trung Nguyên (Bắc Văn Lang) vào tay nhà Chu Phương Bắc.
Về sau có thơ rằng:
Ai thâm hiểm cho bằng Câu Tiễn Giết Bá Hi vì sợ Bá Hi Rắn độc mà ở kề bên Có ngày nó cắn nát tan cuộc đời Nên nói dối an lòng Ngô chúng Trả hận thù tướng quốc Ngũ Viên Lương tâm gian trá vô biên Tránh đâu cho khỏi đảo điên cơ đồ Đem đất Việt dâng về phương Bắc Mua công danh cấu kết ngoại bang Làm cho nước Việt nát tan Văn Lang đất Bắc hết mong trở về.
Việt Vương Câu Tiễn hoà hảo với các trấn chư hầu đất Bắc như Tề, Tấn v.v… cùng một số trấn chư hầu khác hội họp ở Từ Châu tùng phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương nhà Chu phong cho Việt Vương Câu Tiễn là VIỆT BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất Việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới, không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC. Vì sao lại có nguyên nhân sâu xa như thế? Vì Ông Cha Câu Tiễn là người phương Bắc, tôn thờ Văn Hoá Phương Bắc chứ không tôn thờ Văn Hoá Phương Nam dù biết rằng dòng họ Vua Vũ đã nhập cư thành dân Văn Lang. Tư tưởng Việt Vương Câu Tiễn thừa kế di chí Ông Cha thà Việt Trung Nguyên mất về Phương Bắc còn hơn mất về Phương Nam, trả Bắc Văn Lang về cho nước Văn Lang. Vì Việt Vương Câu Tiễn biết rõ, nếu quân Văn Lang chiếm lại được Bắc Văn Lang thời Tổ Tiên thái miếu Việt Vương Câu Tiễn sẽ bị san bằng huỷ diệt với cái tội phản bội lại nước Văn Lang. Với ý nghĩ này, Việt Vương Câu Tiễn có xu hướng ngả về Phương Bắc, sẵn sàng dâng nước Việt Trung Nguyên cho phương Bắc nếu có cơ hội tiến thân và đúng vậy. Việt Vương Câu Tiễn dâng nước Việt Trung Nguyên cho nhà Chu ở vào thời Chu Nguyên Vương vào năm 469 trước Công Nguyên, từ đây Bắc Văn Lang chính thức mất vào tay Phương Bắc.