Hoa Phong Lan đã viết:
Câu hỏi 1:
Cammy đã viết:
Vị vua đầu tiên của Việt Nam là ai?
Hoa Xuyên Tuyết đã viết:
À, nói thêm về chuyện quốc hiệu nước ta, mình có đọc ở đâu đó (hu hu, hồi ấy chưa có thói quen ghi lại nguồn gốc thông tin) rằng tuy đến thời vua Gia Long nước ta mới có tên là Việt Nam, nhưng trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ gần 500 năm trước đó đã khẳng định tên nước ta là Việt Nam trong cuốn "Trình tiên sinh quốc ngữ" (Cái này cũng phải tra lại).. Như vậy, đó phải chăng là Giời đinhh nhỉ, chuyện nước mình sẽ có tên là VN ấy? À, nhưng cũng có thể Nguyễn Ánh đọc NBK mà đặt tên nước mình thế chăng hi hi hi???
Chủ đề Huynh Lão đưa ra hấp dẫn và bổ ích thật.
Về quốc hiệu Việt Nam thì... hì hì... Theo VK Chỉ có "Việt Nam dân chủ cộng hoà là" là Quốc hiệu chuẩn nhất theo hiến pháp năm 1946 của nước ta (mà khi ấy không còn chế độ phong kiến nên chẳng còn vua chính danh). Còn quốc hiệu "Việt Nam" do Triều Thanh bên Trung Hoa năm 1804 sắc phong phê chuẩn Quốc hiệu nước ta (đã đảo ngược hai chữ Nam Việt Gia Long đề nghị sắc phong năm 1802 thành Việt Nam) Vẫn là một nước chư hầu phụ thuộc nước lớn.
Đệ cũng nghĩ như HXT: vị vua đầu tiên của nước "Việt Nam" (Hiểu theo nghĩa là vị Vua đầu tiên của nước ta từ thời khai quốc). Nhưng theo VK thì trước hết người ấy phải đáp ứng được các tiêu chí: 1.Thống nhất đất nước "Hợp nhất các bộ lạc, bộ tộc... hình thành một nhà nước" ; 2. Xưng vương; 3. Đặt quốc hiệu cho đất nước.
Vậy chúng ta cũng thử trao đổi với nhau trải qua mấy ngàn năm lịch sử đất nước ta có bao nhiêu lần thống nhất.
Về các câu hỏi Phong huynh đưa ra VK tạm xin khất chưa dám trả lời. VK cũng xin trích bài viết vãmuất xứ tên gọi Việt Nam.
Quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ?
Các tên gọi Văn Lang, Vạn Xuân, Đại Việt... đều được các sử gia sử dụng làm quốc hiệu. Còn các học giả xưa vẫn viết "Ngã Việt quốc, ngã Nam nhân". Hai tiếng Việt Nam, qua các thư tịch cổ thì mới chỉ là quốc danh, song rất hạn chế. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tên gọi Việt Nam chính thức thành tên gọi đất nước. Hiến pháp 1946 viết "Nước Việt Nam là một nước theo chế độ dân chủ cộng hòa". Như vậy, Việt Nam dân chủ cộng hòa mới trở thành quốc hiệu, đến nam 1976 quốc hiệu này được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Câu hỏi tên nước “Việt Nam” (Quốc hiệu nước ta) có tự bao giờ? tưởng chừng rất đơn giản nhưng thực sự nhiều người vẫn còn chưa rõ. Đại đa số các sách giáo khoa không đề cập đến vấn đề này. Ngay cuốn Lịch sử Việt Nam do Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản năm 1976 cũng không hề nói tới điều này.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (thế kỷ 19), thì từ thời nhà Trần, tiến sĩ Hồ Tông Thốc đã viết bộ sách “Việt Nam thế chí”. Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi (thế kỷ 15) cũng đã nhiều lần nhắc đến hai tiếng Việt Nam. Song đáng tiếc, cuốn “Việt Nam thế chí” không còn nữa, chỉ còn được dẫn bài tựa trong “Lịch triều hiến chương loại chí”; còn cuốn “Dư địa chí” chỉ được khắc ván in ở thế kỷ 19 khi đã có quốc hiệu Việt Nam rồi, những bản trước không có niên hiệu rõ ràng.
Trong cuốn chính sử nhà Nguyễn “Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất ký” có ghi lại sự kiện Triều Thanh bên Trung Hoa năm 1804 đã đảo ngược hai chữ Nam Việt mà Gia Long đề nghị sắc phong năm 1802 thành Việt Nam.
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm còn những ai đã dùng danh xưng Việt Nam?
“Việt Nam khởi tổ xây nền” - Câu thứ 7 trong Sấm Trạng Trình, được coi là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) bản AB 444 trong kho sách của Viện Hán Nôm. Theo quan niệm chính thống, hai chữ Việt Nam không được phép có mặt trước năm 1804. Bản sấm này được truyền lại qua những bản chép tay, cũng không ai dám chắc tác giả là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên hai tiếng Việt Nam được cụ nhắc tới bốn lần: Trong tập thơ “Sơn hà hải động thường vịnh” đã đề cập tới. Rõ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, cụ có viết "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại, Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam"; Trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến "Tiền đồ vĩ đại quân tu ký, Thùy thị công danh trọng Việt Nam". Dẫu sao, đó cũng mới chỉ là những văn bản chép tay.
Trong bi ký (bài ký trên bia đá).Trên bia trùng tu chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh) soạn năm 1664 phần bài Minh có câu “Việt Nam cảnh giới, Kinh Bắc thừa tuyên”; Bia trùng tu chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương) soạn năm 1558, có câu “Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ”; Bia chùa Cam Lộ (Hà Tây), năm 1590 có câu “Chân Việt Nam chi đệ nhất”; Quan trọng nhất là tấm bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670) có câu “Việt Nam hầu thiệt trấn bắc ải quan”. Đây là tấm bia có niên đại muộn hơn song nó có danh tính người soạn, hơn nữa đây là một mệnh quan triều đình, là người phát ngôn chính thức.
Cho đến nay, các nhà nghiên đã phát hiện tổng số 12 bia có hai tiếng “Việt Nam”. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17. Ngoài ra, còn một bản in khắc gỗ có danh xưng Việt Nam năm 1752. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu, và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng, sử dụng nhiều nhất và có ý thức nhất.
Dân tộc ta bắt nguồn từ một bộ tộc Việt trong Bách Việt - chỉ tất cả các dân tộc phía nam Trung Hoa. Trong toàn bộ lịch sử, ta luôn dùng từ Việt, để chỉ dân tộc và đất nước ta. Song cha ông ta cũng dùng từ "Nam" với ý nghĩa tương tự. Mở đầu bài thơ Thần (được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta) Lý Thường Kiệt viết “Nam quốc sơn hà nam đế cư”…
Thế kỷ 15, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê ở nước ta, nhà Minh bên Trung Quốc lấy cớ đem quân can thiệp. Nhà Mạc đầu hàng, Đại Việt lúc đó bị biến thành một quận của Trung Quốc, không còn quốc hiệu. Mạc Đăng Dung được nhà Minh phong làm An Nam đô sứ ty. Trên thực tế Mạc Đăng Dung vẫn là vua một nước. Để vừa đối phó với triều đình phương Bắc, vừa an dân, rất có thể tên nước thời ấy đã được gọi là Việt Nam. Lúc ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là học giả đứng đầu cả nước, nên nhiều khả năng ông đặt ra cách gọi này và có thể coi ông là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam như là Quốc hiệu. .
Dẫu sao thì quốc hiệu Việt Nam cũng được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng đầu tiên, nhiều nhất và có ý thức nhất. Từ nguồn gốc này, lịch sử quốc hiệu đất nước không còn phụ thuộc vào hai triều đại phong kiến nữa.
* 'Bài viết rút trích từ Báo Đại Đoàn Kết bài trả lời phỏng vấn Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn Khoa học Dự báo (Dự báo học) thuộc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.'
"Mở cửa nhìn Trăng - Trăng tái mặt
Khép phòng đốt Nến - Nến rơi châu"